NGHĨ VỀ MỸ THUẬT VĂN TỰ I THINH QUANG
| NGHĨ VỀ MỸ THUẬT VĂN TỰ I THINH QUANG Mỹ thuật Trung Hoa nẩy sinh ngay từ thời bàn cổ, khi mà con người vừa ra đời đã nghĩ ngay đến các nhu cầu cần thiết để sống và bảo vệ sự sống. Họ phải trải qua bao nhiêu nỗi gian khổ bằng tay chân, băng đèo lội suối và vì nhu cầu của sự sống họ bắt đầu vận dụng trí tuệ phát minh, sáng chế các công cụ thô thiền bằng đá…và từ đó nẩy sinh ra ý thức tạo hình. Ý thức “Mỹ thuật” không phải đợi đến khi có cuộc cách mạng “lửa” mới phát sinh mà chính nó đã mở đầu cho một nền văn minh tối cổ ngay khi loài người còn ăn lông ở lỗ. Hay nói cách khác hơn “ý thức mỹ thuật” manh nha ngay từ lúc con người biết tự đi tìm mọi nhu cầu cần thiết cho đờiï sống bằng sức sáng tạo chính bản thân mình. .. cũng không ngoài mục đích để bảo tồn sự sống… Vậy thì “Mỹ thuật Trung Quốc” phải trải qua một tiến trình lâu dài kể từ khi có đời sống con người xuất hiện. Các nhà làm nên lịch sử cổ đại của người Trung Hoa đã để lại hàng bao nhiêu tác phẩm ngoài sức hiểu biết của các nhà khảo cổ, từ thô thiển,giản đơn đến những tác phẩm kỳ diệu mà con người thời nay từng hãnh diện có những bộ óc xuất phàm về phương diện kiến tạo nên các công trình mỹ thuật mà ngày nay vẫn còn chưa lý giải được. Các kiệt tác phẩm của người Trung Hoa có từ hàng bao nhiêu ngàn năm vẫn còn đó, tất cả đều mang nét đặc thù của một dân tộc có một nền văn minh cổ đại. Hàng vạn năm về trước người Trung Hoa đã biết làm “đõm”. Họ đã tìm ra được công thức bằng thảo mộc hoặc ngay bằng khoáng sản làm ra màu sắc để nhuộm từng chiếc răng thú, từng viên đá quý hoặc các viên đá cuội họ đã cần cù gia công, đẽo gọt…làm thành xâu chuỗi dành cho chính mình trang sức hoặc mang trao tặng để bày tỏ tình cảm của mình … Ý thức thẩm mỹ bắt nguồn từ cảm xúc giữa con người với con người hay đúng hơn giữa phái nam và phái nữ. Chính công trình mỹ thuật ban sơ này đã nói lên sự thành công rực rỡ của nền văn minh cổ đại Trung Quốc… Văn hóa Ngưỡng Thiều có các đồ gốm vẽ lên những hình màu sắc mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy công trình nghệ thuật làm đồ gốm phân bố trên các di chỉ Hà Nam,Thiểm Tây hoặc văn hóa Mã gia dao phân bố trên di chỉ Cam Túc, Thanh Hải…rực lên những hình ảnh thiên nhiên, chim bay giữa vòm trời , cá lượn giữa giòng nước , hoặc hình ảnh các con hưu đang chẫm rải bước đi trên nương đồi đầy cỏ cây hoa lá…Có thể nói đó là những bức tranh tuyệt kỹ…Còn bao nhiêu hình ảnh khác mà nghệ nhân đã ghi lại các hình ảnh sinh hoạt văn nghệ của các đoàn người đang tay trong tay cùng nhau vũ lộng… Các chậu gốm khai quật được tại Tôn gia trại mà theo văn học sử ghi lại đã tìm thấy tại huyện Ðại Thông thuộc tỉnh Thanh Hải…Tất cả những hình ảnh ghi nhận bên trên ghi lại hình ảnh sinh hoạt của người nguyên thủy có một đời sống lạc quan và hài hòa… Ðặc biệt ở tỉnh Liêu Ninh còn tìm thấy các tượng các nữ thần – nói lên sự tiến triển vượt bực về công trình mỹ nghệ điêu khắc – cùng những bực tượng phụ nữ khỏa thân được mô tả là tuyệt vời, chưa kể các hình ảnh điêu khắc khác gồm các miếng ngọc bích chạm rồng hoặc hình ảnh các cánh chim lửng lơ bay, hoặc con cá lững lờ bơi lội dưới các dòng sông xanh. v.v… Có thể nói rằng nền văn học nghệ thuật của Trung Hoa biểu trưng cho nền văn hóa dân tộc có chiều dài lịch sử mà các nhà khảo cổ Tây phương đã khám phá đều cùng có một nhận xét xác nhận Trung Hoa là một dân tộc có nền văn hóa truyền thống, một lịch sử lâu đời và một nội dung súc tích.. Văn học nghệ thuật Trung Quốc nặng về tinh thần đạo đức qua lời nói, câu văn, qua hình ảnh được phác họa trong tranh vẽ v.v… nhất nhất đều qui tụ vào vòng khuôn phép. Họ nhất tề không được phép để lộ một nét nào trong hình vẽ hoặc một lời nói nào mất đi sự trung thực…hoặc phạm đến thuần phong mỹ tục…mà phải phản ảnh tinh thần đạo đức…Thơ hay văn phải phóng khoáng,cao đẹp thể hiện tinh thần cao đẹp cùng nếp sống đạo đức tôn nghiêm mà dân tộc Trung Hoa vẫn duy trì cái hay,cái đẹp mặc dù đã trải qua bao cảnh thăng trầm của lịch sử. Không phải đợi đến thời Ðông Chu người Trung Hoa mới có nền văn hóa phong phú mà trước đó trong thời kỳ cổ đại đã nói lên được nỗi lòng của mình qua ca dao truyền khẩu. Có thể thi ca truyền khẩu người xưa lưu lại không ít, song vì lâu đời nên thất truyền, hoặc lờ mờ về không gian và thời gian nên các nhà sưu tập khó lòng biết đích xác là thật hay vì người đời sau thêm thắt… Sách Hán thư có ghi lại bài dân ca của Hung nô thời cổ đại còn lại một bài duy nhất có thể là thật. Hay bài Kích – Nhưỡng Ca ghi lại trong Ðế vương thế kỷ. Bài Khang Cù Dao ghi trong sách Liệt Tử : Lập ngã chung dân, Dân chúng tôi lập ra đông đảo Ngoài ra còn có các bài “Nam Phong Ca” trong sách Thi tử nói lên cảnh thanh bình, hay “Ngũ Tử Chi Ca” trong Ngục cổ văn Thượng Thư , hoặc như bài “Lạp từ” của Y kỳ thị dưới đây: Thổ phản kỳ trạch, Ðất kia rồi trở về mồ Bài “Thái vi ca” : Ðăng bỉ tây sơn hề, Trèo lên phía tây núi hề THINH QUANG |