Bị Tước Mất Tên – NgyThanh

Bị Tước Mất Tên

 

– NgyThanh

 

Dù đã tới thăm hay chưa từng, có lẽ không người Việt Nam nào không biết tới Động Phong Nha – một phần trong quần thể đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization, viết tắt: UNESCO) công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo, bằng văn bản Quyết Định ngày 5/07/2003.

Ngoài tên Núi Thầy, Hang Trùa hay Hang Chùa, Động Phong Nha còn được gọi là Động Thầy Tiên hay Động Troóc. Báo chí trong nước diễn nghĩa “Phong Nha” là từ ghép Hán việt: phong, là gió, và nha, là răng, để diễn tả luồng gió thổi từ trong động rít qua các thạch nhũ từ trần hang tua tủa đâm xuống như hàm răng, nhưng nhiều học giả khác lại có ý kiến cho rằng Phong Nha mang tên ngôi làng kế cận chứ không có nghĩa là gió và răng. Theo ông Lê Quý Đôn, Phong Nha là tên một làng sơn cước ngày xưa mang hình ảnh những ngọn núi sắp thành từng dãy đều đặn như hình ảnh các quan đứng thành hàng trên sân chầu nên người xưa đã lấy chữ phong nghĩa là đỉnh núi, ghép với chữ nha, có nghĩa là quan lại, để đặt tên cho động Phong Nha. Ngày nay, tên chính thức là Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, ghép bởi tên động Phong Nha và tên khu vực rừng núi đá vôi Kẻ Bàng.

Tự điển Wikipedia ghi rất rõ bằng tiếng Việt: Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp “Khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia. Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.000 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà khoa học mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng”.

Nhưng những điều kỳ bí và nét đẹp tuyệt vời của hang động vùng Phong Nha không dừng lại ở những gì mà chính quyền Hà Nội và tổ chức UNESCO biết tới. Các nhà chuyên môn quốc tế nghi ngờ rằng vẫn còn nhiều điều bất ngờ bên sau bức màn bí mật cần phải khám phá. Hai trong những người ấy là tiến sĩ Howard Limbert và bà Debra vợ ông, thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh. Trên đường lui tới Phong Nha, ông Limbert đã hơn một lần khăn gói quả mướp đến miền đất xã Sơn Trạch, và ghi dấu chân trên Đèo Ngang của tỉnh Quảng Bình, nhưng ông không có máu hài hước kiểu người Việt để thấm thía ý nghĩa sự trắng tay khi nói lái chữ Sơn Trạch thành “sạch trơn”, và Đèo Ngang là “đang nghèo”. Bù lại, ông có ý chí và niềm tin sắt đá của một nhà khoa học, rằng khu vực Kẻ Bàng còn hứa hẹn rất nhiều. Từ nhiều thập niên trước, vợ chồng ông Limbert đã miệt mài tới lui khu hoang động hoang sơ nầy. Hai ông bà là những chuyên viên thám hiểm hang động đầy kinh nghiệm với thành btích là các chuyến mạo hiểm vào vùng thung lũng mạn bắc nước Anh. Họ đã khổ nhọc lần tìm đường đi nước bước, ngược xuôi xin giấy phép, và dấn thân cả thảy 13 chuyến kể từ năm 1990, không chỉ có công phát hiện hang Khe Ry có con sông ngầm chảy dưới lòng núi đá vôi dài hơn 19 km, mà còn giúp chính phủ Việt Nam qui hoạch và thiết kế Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng rộng 855 km vuông hiện thu hút một phần tư triệu du khách mỗi năm.

Ngày 5/04/2009, khi dẫn đoàn khảo sát Hoàng gia Anh đi tìm cái hang lạ mà một thanh niên xã “sạch trơn” có lần nhìn thấy ngót hai thập niên về trước khi đi tìm trầm bán kiếm gạo cơm đã vô tình phát hiện. Vừa tới cửa hang, cả đoàn đã nghe tiếng gió quật ào ào. Howard Limbert bất ngờ ôm chầm lấy người dẫn đường và chúc mừng anh. Dù chỉ mới đến cửa hang, nhưng với kinh nghiệm từng trải của một chuyên gia thám hiểm, chỉ cần nghe tiếng hú của gió, Howard Limbert biết đoàn thám hiểm sắp được chứng kiến một món quà tuyệt diệu do tạo hóa dành riêng cho miền đất “đang nghèo”: một hang động thiên nhiên thoạt đầu làm cả toán choáng váng vì thừa không gian để chứa thoải mái một chiếc Boeing 747 dài 70.6 m, sải cánh rộng 64.4 m, và cao 19.4 mét. Đối với những nhà khoa học hiến dâng cả cuộc đời để đi tìm những hang động chưa khai phá trên mặt địa cầu, phát hiện cái hang khổng lồ lần nầy ở Việt Nam chẳng khác bắt gặp một ngọn núi Everest ngầm dưới mặt đất chưa có vết chân loài người. Đi theo đoàn, phóng viên Mark Jenkins của tạp chí National Geographic ghi lại: “Tôi tắt đèn đội đầu để có thể cảm nhận được chiều sâu của bóng tối trước mặt. Thoạt đầu chẳng thấy gì. Nhưng sau khi quen mắt, tôi bất chợt nhận ra một tia sáng yếu ớt ma quái ở phía trước. Tôi lách bước chân trên những mẩu đá vụn, chừng như tuôn chạy vì phấn chấn, tiếng đá va chạm nhau dưới chân vang vọng trong căn buồng vô hình. Băng ngang qua một trũng dốc đứng, tôi trèo lên một chóp đá tựa như triền núi và dừng lại. Một chùm tia sáng mặt trời lớn cắm xuống lòng hang như một thác nước. Cái lỗ hổng trên trần hang nơi ánh sáng tràn xuống lớn không thể tưởng, ít ra cũng cả 100 mét bề ngang. Tia sáng thọc sâu xuống lòng hang soi dọi những phần của hang mới từ trần hầm ở 300 mét trên cao cho thấy một khoảng trống đủ rộng để chứa một nhà chọc trời 40 tầng bề ngang cỡ một khuôn phố New York. Bên dưới trần hang, các dải mây mỏng giăng giăng.”

Nhân danh trưởng đoàn thám hiểm, tiến sĩ Howard Limbert đề nghị thanh niên Việt Nam có công phát hiện hang chọn một cái tên để đặt cho hang động mới tìm thấy vừa được đoàn thám hiểm Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh khẳng định và công bố là lớn nhất thế giới. Người thanh niên Việt Nam nầy tên là Hồ Khanh cư trú ở ven con sông Son thuộc xóm 1, thôn Phong Nha, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Về sau, anh kể: “Sau khi tìm lại được hang này, đoàn thám hiểm đã đề nghị tôi đặt tên cho nó. Là người tìm ra hang, tôi quyết định đặt tên nó là Khanh”. Quyết định đó đã được đoàn tức khắc ghi nhận. Ngày 22/04/2009, trước UBND tỉnh Quảng Bình, Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã công bố việc phát hiện ra hang động lớn nhất thế giới. Với chiều rộng 200 mét, cao hơn 150 mét, dài ít nhất là 6,5 km hang đã vượt qua hang Deer ở Vườn quốc gia Gunung Mulu của Malaysia với chiều cao 100m, rộng 90m, dài 2km để chiếm vị trí hang động tự nhiên lớn nhất thế giới; hang động mới này do Hồ Khanh, một người leo núi địa phương tìm ra và hướng dẫn đoàn thám hiểm Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh tìm tới, và chính ông cũng đã đặt tên cho hạng động này. Nhưng vài ngày sau, không hiểu vì sao ông Limbert quay lại xin phép anh đặt lại tên hang bằng một tên khác và anh đành đồng ý. Lần nầy, anh Khanh căn cứ vào địa danh: hang mới nằm ở vùng Hạ Đoòng, thuộc xứ Đoòng, gần khu vực sinh sống của một bản người dân tộc tên là bản Đoòng, ghép với chữ “Sơn” có nghĩa “núi”, anh quyết định đặt tên thứ nhì cho hang là Sơn Đoòng.

Ngậm ngải tìm trầm

Chắc chắn khi quay lại tìm gặp Hồ Khanh để thuyết phục anh loại bỏ tên “Hang Hồ Khanh” và dùng một tên nào khác, tiến sĩ Limbert đã không kể cho anh Khanh nghe những gì chính phủ Việt Nam húy kỵ, không muốn thế giới từ nay mỗi khi nói về hang động lớn nhất thế giới sẽ nhắc đến cái tên lớn “Hồ Khanh”, che khuất mất cái tên “Hồ Chí Minh” vĩ đại và thần thánh số một ở Việt Nam. Là một người lớn lên sau chiến tranh, gia đình nghèo khổ, không nghề chuyên môn hay chữ nghĩa, cũng không có đủ “công với cách mạng” để luồn lách vào bộ máy tham nhũng cai trị đất nước, Khanh đã một thời bỏ cuốc bỏ cày chọn nghiệp “sơn tràng” lầm lũi vào rừng tìm trầm bán đổi gạo nuôi thân, nên trước khi lấy tên mình đặt cho hang động do chính mình khám phá, anh chưa hề biết thế nào là phạm húy, một thứ luật do vua Trần Thái Tông ban hành vào năm Kiến Trung thứ tám, rập khuôn văn hóa Trung quốc. Tới triều Hậu Lê, vua Lê Thái Tổ đã cập nhật bằng một lệnh kiêng húy ồn ào nhất lịch sử, né tránh cách gọi tên trực tiếp, thêm bộ chữ hoặc thêm bớt nét của chữ Nho để biến thành dạng chữ khác ở cả cách đọc và cách viết, như Ngô Thì Nhậm thay cho Ngô Thời Nhiệm, Phan Châu Trinh thay Phan Chu Trinh. Qua triều nhà Nguyễn, vua Gia Long còn bắt dân kiêng cả tên con dâu 15 tuổi của ông là Hồ Thị Hoa, do đó, chợ Đông Hoa ở Huế bị cải danh thành chợ Đông Ba, còn chữ Thiên phạm đến Trời nên chùa Thiên Mụ phải gọi là chùa Linh Mụ. Nay đến đời “vua” Nguyễn Minh Triết, phải chi anh Khanh đừng mang họ Hồ thì đã không chạm nọc thủ đô Hà Nội.

Đặt tên hang động không phải là chuyện mới lạ, mà chỉ là chuyện nhỏ mà anh Hồ Khanh đã làm nhiều lần cách đây hai mươi năm. Ngoài hang Sơn Đoòng đang gây nhiều tranh cãi trên cộng đồng mạng về mức độ mỹ học của nó, anh Khanh đã đặt tên cho hầu hết các hang mà anh khám phá bằng cách dùng tên của vợ (hang Nghĩa), của đứa con gái nhỏ của anh (hang Thái Hòa), của bạn bè (hang Hùng) – tâm đắc nhất là hang Thái Hòa nằm trên vách núi dựng đứng, cách chân núi khoảng 150m và theo lời anh, “có thạch nhũ đẹp còn hơn động Phong Nha” do anh tình cờ phát hiện trong một lần lạc lối phải đi quẫn quanh trong rừng để tìm lối ra, nên anh đã lấy tên con gái để đặt tên và để kỷ niệm lần lạc rừng tưởng đã chết bỏ xác đó. Ngoài ra, anh lấy cả tên Hồ Trên Núi là tên quán cà phê mà anh và chị Lê Thị Nghĩa vợ anh mở cửa để kiếm sống hàng ngày. Rồi khi đoàn thám hiểm hỏi anh về “Vực Tang”, anh đã ngẫn người ra một hồi khá lâu, rồi mới nhớ ra cái hố sụt độ tuổi 400 triệu năm mới được phát hiện với chiều sâu khảo sát được tới 225 mét tên Vực Thắng, được đặt theo tên một người tên Thắng đã phát hiện ra nó; khi ghi bằng tiếng Anh được người đọc phát âm thành “Tang” như một dị bản của Vực Thắng. Nói về việc đặt tên cho các hang, anh tâm sự: “Tui cũng không nghĩ gì phức tạp, chỉ biết là mình đã tìm ra và họ cho đặt tên thì nghĩ ra những cái tên gì gần gũi, coi như làm kỷ niệm cuộc đời”. Khi đoàn thám hiểm hỏi lại anh: “Suy nghĩ kỹ chưa?”, anh thật thà trả lời: “Rồi”. Thế là xong.

Mồ côi cha sớm từ những ngày còn cắp sách đến trường cấp hai của làng, tới năm lớp 7, Khanh đã bị hoàn cảnh nghèo khổ ném vào đời, phải nghỉ học để ở nhà chăn trâu bò giúp mẹ, rồi trở thành một tay “sơn tràng” trẻ nhất vùng núi Phong Nha-Kẻ Bàng, theo gót trai làng cơm đùm gạo nắm vào rừng.

Trong nghề, dân tìm trầm gọi nhau là “dân đi cội” hay “đi điệu”. Họ tập họp thành từng nhóm, thường từ 3 đến 6, 7 người, mỗi người cõng theo trên lưng hành trang cá nhân nặng tới 60 kg chủ yếu là gạo, mắm khô, bột ngọt, thịt hộp, mì tôm, bột canh, chè, thuốc lào, vải che mưa, bật lửa, dao, rìu búa, khoan thăm dò lõi cây, thuốc cấp cứu, nhưng đặc biệt chẳng có bùa ngải như lời truyền tụng “ngậm ngải tìm trầm”. Loài cây để lấy làm trầm gọi là “dó trầm” (Aquilaria Crassna Pierre), chiếm một tỉ lệ hết sức thấp trong rừng bạt ngàn. Để nhận ra cây dó trầm, dân đi cội phải dựa vào kinh nghiệm khi quan sát thân, cành, tán, lá, và khi gió thổi lật ngược mặt dưới tán lá có màu sắc đặc trưng của dó trầm, để xác định đúng cây trầm khi còn cách từ xa 3 – 4 km dưới thung lũng hoặc ở sườn núi bên kia. Cho dù thừa kinh nghiệm, tìm trầm vẫn rất khó, có khi phải lặn lội trong rừng nhiều tuần nhiều tháng, đối diện với đói khát, tật bệnh, với những tai nạn bất ngờ luôn rình rập; ban đêm có khi ngủ chung với rắn, ban ngày thường xuyên phải chạy thục mạng vì bị ong rừng tấn công. Trước lúc vào rừng, dân tìm trầm phải cẩn thận chọn hương, hoa, trà, rượu, chè, xôi và trầu cau và ngày giờ tốt để lập bàn thờ khấn vái bà Thánh Mẫu Thiên y Ana phù hộ họ tránh được tử thần và các thứ rủi ro. Trước khi cúng kiếng vài ba ngày, họ phải kiêng cữ đàn bà và men rượu. Vào rừng, người “đi” trầm có các điều phải cữ kiêng riêng, nhất là cách gọi tên: gặp cọp, không được kêu tên mà phải gọi bằng ngài; bị vắt cắn thì gọi “con đĩ”, đi săn kiếm thức ăn phải gọi là “đi chợ”; trở về nhà không thể mở miệng nói thế, mà phải là “hạ sơn”. Gặp được cây dó bầu, người “đi” trầm dùng dụng cụ bằng sắt, vẹt và bén nhọn đầu gọi là “dủm” để đục vào thân. Nếu thân cây mềm và đỏ ruột là gặp đúng trầm, nhưng thường đục cả ngàn cây mới có một lần may mắn gặp cây tạo trầm. Trước khi hạ dó, toán gặp may phải cúng thổ địa thần hoàng và tam cổ hội đồng bằng 13 mâm đồ chay; riêng các món mặn, người “đi” trầm dành cúng các vong hồn đã bỏ mạng vì trầm hương…

Dân gian truyền tụng rằng ngải là một thứ củ do người Thượng luyện rất công phu, bằng cách hấp củ cây ngải trong lò mật ong suốt một tháng, rồi ngâm dưới dòng suối nước chảy đủ một trăm ngày. Tiếp theo, củ ngải phải được lần lượt đặt vào tay năm người chết, rồi đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh, trước khi nhét vào lòng một cái giò heo để lừa cho cọp ăn. Nếu may mắn, khi ngải vừa vào dạ dày hổ, con hổ phải bị đánh bẫy và giết ngay để lấy ngải ra trước khi bị tiêu hóa. Bấy giờ ngải trở thành bùa thiêng giúp cho người ngậm nó vào rừng không cần ăn uống cũng vẫn sống, còn thú dữ dù đi sát bên cũng không thấy người ấy, nhưng hạn trong ba tháng mười ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không nhả kịp, chính người ngậm ngải ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Về khoa học, ngải là một loại dược thảo thuộc họ gừng, thân thảo, cao khoảng 1 mét, tỏa mùi thơm như long não, để mài lấy tinh bột ngâm rượu xoa bóp trị đau nhức, tê thấp, nhất là sốt rét rừng. Trong thực tế cay đắng của nghề đi cội, “ngậm ngải tìm trầm” chỉ là cách diễn tả nỗi cơ cực, đắng chát của nghề nghiệp, thay vì nói lên sự thần bí. Tuy nhiên, do ăn dầm ở dề trong những cánh rừng bạt ngàn sơn lam chướng khí lác đác những nấm mộ rêu phong của những người tìm trầm khác, bị muỗi rừng và vắt tấn công, hút máu rất dễ sinh bệnh sốt rét, dân đi cội phải nuốt ngải cứu đắng chát để chữa bệnh, như tinh thần câu nói “Nhân trần ngải cứu đi đâu, để cho gái đẻ đớn đau thế này”. Tên khoa học của ngải cứu là Artemisia Vulgaris L., cùng họ với cây Artemisia Annua L. mà người Trung quốc gọi là cây Huanghuahaosu, hay cây Thanh hao hoa vàng trong tiếng Việt, được trồng để chiết xuất ra chất Artemisin làm thuốc chống sốt rét.
Rừng đại ngàn nước Việt lâu nay chưa tắt âm vang những câu chuyện đau lòng của dân “đi” trầm. Dân “điệu” địa phương cũng chưa quên câu chuyện 4 thợ sơn tràng trong một chuyến vào rừng đã trúng một lúc mấy chục cân trầm hương hảo hạng. Hai người được phân công nấu cơm cho toán đã bỏ lá độc vào thức ăn để mưu sát hai người kia, trong khi hai người kia nhận nhiệm vụ xuống suối kiếm cá đã bàn bạc rồi quay lại giết hai người nấu cơm để cướp trầm. Hai người gục ngã vì dao, để hai người kia chia chác xong số trầm cướp được của bạn mình đã ăn lá độc, bỏ xác lại trong rừng Phước Sơn. Chính Hồ Khanh cũng nghe nhiều lần chuyện “Sanh Nùng”, một vua trầm xưng hùng xứng bá ở miệt sông Tranh giữa hai huyện Phước Sơn và Trà My của Quảng Nam, cướp đoạt hầu hết số trầm mà các thợ rừng khác kiếm được. Trên đường xuống núi, đến lượt “Sanh Nùng” đã bị một đám cướp khác phục kích, cột đá vào cổ thả xuống đáy sông Tranh.

Sau khi lập gia đình, Hồ Khanh theo đuổi nghề tìm trầm từ năm 1986, đến đợt đi cuối năm 1991 thì bỏ vì không có thu nhập. Tuy nhiên, trong một chuyến “đi” trầm trước đó vào năm 1989, Hồ Khanh đã tình cờ gặp một hang động có cây cối mọc um tùm che chắn ngoài cửa. Sau những phút sợ hãi ban đầu, tính hiếu kỳ đã thôi thúc Khanh vào hang để xem và chứng kiến những thạch nhũ đẹp tuyệt vời trong không khí mát lạnh dù trời đang ở vào mùa hè khô nóng oi bức của thời tiết Quảng bình. Vào sâu khoảng 30m, Khanh thấy trong những hồ nhỏ đọng nước của hang nằm san sát nhau có cá lội tung tăng, nhiều con lớn bằng bắp chân. Ra khỏi hang, để nhớ tên hang động nầy, Khanh đặt tên là hang Vực Cá Thau, nghĩa là cá nhiều như chứa trong thau, và vị trí của hang nằm gần một cái hồ có nhiều cá mà dân địa phương thường tìm tới đánh bắt.

Bí mật của hang động bắt đầu cuốn hút Hồ Khanh như thế. Vùng Đoòng nầy có hai miền: Thượng Đoòng gồm toàn rừng núi đất, trong khi Hạ Đoòng là vùng gồm toàn núi đá vôi. Nếu đi tìm trầm, dân làng phải lên Thượng Đoòng, còn để thỏa mản tò mò về hang động, Hồ Khanh quanh quẩn miền Hạ Đoòng. Quẩn quanh mãi cả 10 năm, Hồ Khanh đã tìm thấy cả thảy 21 hang động chưa được liệt kê trên danh sách của UNESCO, hay của chính quyền Hà Nội.

Ngậm đói tìm hang

Trong chuyến đi lịch sử “ngậm” cái đói đạp cội tìm trầm trong năm 1991, khi anh thợ sơn tràng tài tử đang một mình lầm lũi cắt rừng theo tuyến hang Én từ sáng sớm đến quá trưa đã bất thần gặp trận mưa rừng như trút nước. Chạy ùa vào một hốc đá sâu để tránh lũ ống quét qua, Hồ Khanh nghe sau lưng gió quật vù vù. Dùng dao rừng phạt gốc những cây dại và lau lách mọc chắn trước hốc đá, anh thấy một cửa động tối om. Anh đã ngồi ớn lạnh chịu trận suốt một giờ đồng hồ, tiến thoái lưỡng nan, phía trước là cơn mưa xối xả chắn đường về, phía sau là hang sâu thăm thẳm với tiếng gió thổi rít từng cơn cuồn cuộn không dứt từ phía trong hang dội ra. Sau khi trấn áp được sự hoảng sợ và dấn bước sâu hơn vào hang, Khanh nghe gió rít trộn lẫn với tiếng gầm của thác nước chảy xiết rợn người. Về sau anh kể với đoàn thám hiểm: “Ban đầu tui sợ lắm. Trước ở làng thường nghe bà con kể chuyện trong hang hốc hay có thuồng luồng hoặc thú dữ ẩn nấp nên không dám hó hé gì, dù tính tò mò luôn nổi dậy trong người tui. Sau tui cố gắng vượt qua sợ hãi và đi vô trong hang một đoạn năm bảy mét chi đó, nhưng vì sợ nên đành quay lui.” Hết mưa, Hồ Khanh xốc lại dao rựa, tiếp tục tìm trầm, quần quật với tiếng rít của dạ dày và những tưởng tiếng rít của gió và tiếng chuyển động của thác nước trong lòng hang đã ngừng ám ảnh người đàn ông nghèo khó trong túp lều tranh bên dòng sông Son. Đã hơn một lần, mỗi khi có dịp, Hồ Khanh vẫn kín đáo tìm cách tạt ngang hang động lạ lùng ấy, nhưng chỉ toi công. Tất cả đã trở thành một giấc mơ, trôi vào lãng quên.

Năm 2006, sau khi Hồ Khanh đã từ giả nghề đi trầm quay về làm ruộng được một thời gian, đoàn khảo sát hang động của Hoàng Gia Anh nghe được những tin đồn tam sao thất bổn về chuyện hang động với “tiếng rít của gió và tiếng chuyển động của thác nước”, đã tìm gặp anh, mời anh làm người dẫn đường tới cái hang có gió thổi mạnh 24/24 giờ ấy. Chuyến đó, lặn lội kiếm tìm mãi mất ba ngày nhưng đã về tay không, không tìm thấy được cửa hang anh đã gặp hồi năm 1991, mặc dù đoàn đã phát hiện 3 hang động mới khác. Ông trưởng đoàn Howard Limbert khuyến khích anh cố nhớ lại, trước khi bắt tay từ giã và để lại tấm danh thiếp để anh liên lạc, nếu như anh gặp lại nó khi nào đó trong đời. Ông Limbert cũng đề nghị anh tiếp tục tìm kiếm những hang động mới, và đặc biệt lưu ý tới việc tìm một cửa khác của hang lớn mà anh đã nghe tiếng gió hú, bởi theo phán đoán của ông, hang nầy có thể còn một cửa hang lớn khác, và các hang trong khu vực Phong Nha nầy không chừng có tuyến ăn thông với nhau.

Chia tay, đoàn thám hiểm hẹn anh dịp sau. Giữa năm 2007, anh lại dẫn đoàn lên đường nhưng vẫn không tìm ra hang động đó, đành hẹn nhau chuyến kế tiếp nữa. Lời khuyến khích và dặn dò tiếp tục cuộc tìm kiếm có tính cách xã giao do tiến sĩ Limbert để lại đã mở màn những tháng năm dài đầy nước mắt và thở vắn than dài cho chị Lê Thị Nghĩa, vợ anh Hồ Khanh. Đây là giai đoạn vô cùng khó khăn cho miếng ăn manh mặc của gia đình Khanh-Nghĩa. Anh lam lũ với nghề phụ thợ hồ, những ngày tháng giữa những đợt được gọi làm phu bán sức lao động nuôi vợ con, anh lại cơm gạo vào rừng cầu may kiếm chút trầm đắp đổi qua ngày, nhưng cứ mười chuyến đi thì chỉ có một hai chuyến anh trở về có trầm, mà cũng chỉ là loại trầm giác mạt hạng không mấy giá trị, nên tiền bán trầm không đủ bù vào tiền mua gạo, mắm mang đi.

Suốt hai năm 2006 và 2007, bất cứ vật dụng gì của gia đình mà Hồ Khanh nhắm chừng bán được, cầm được đã lần lượt ra đi. Anh cần tiền để gia đình ăn và sống, trong khi bản thân anh cần chi phí để ngậm cái đói đi tìm lại hang sâu. “Thà rằng không biết thì thôi…” Anh đã tới, đã thấy, đã vào sâu cả 50 mét, đã nghe gió rít, đã nghe nước reo. Anh biết rằng anh không nằm mơ. Mọi người cho anh là thằng gàn. Nhưng anh biết anh có lòng quyết tâm, và không nghi ngờ về mình. Riêng người vợ của ông chồng gàn thì ngậm đắng nuốt cay để bảo vệ hạnh phúc gia đình: “Người ta đi trầm về không có ít cũng có nhiều, anh Khanh nhà em họa hoằn lắm mới có được chút ít mang về, không bù được tiền em mua gạo, mắm, thuốc lá bới xách. Đã rứa chuyến mô đi về cũng chỉ thích kể chuyện tìm ra hang ni, hốc khác…” Tháng 1/2008, anh quyết định trở lại miền Hạ Đoòng lần nữa, cố gắng nhớ lại từng chi tiết của 17 năm về trước. Sau gần hai thập niên, khu vực rừng tự nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng trong vai trò là khu bảo tồn và di sản thiên nhiên thế giới nên được bảo vệ nghiêm ngặt làm cây cối càng xanh um, rừng càng ngày càng mịt mùng hơn. Đã có những lúc Hồ Khanh bước đi như mộng du, muỗi rừng vắt suối mặc tình chích hút, da thịt máu chảy ròng ròng, đá tai mèo đâm gan bàn chân nhưng anh không còn thấy đau nhức, nhất quyết tìm bằng được cái hang. Trọn một ngày đầu xuôi ngược toi công với dép rọ, rựa đi rừng và xà cạp vạch núi dò tìm, anh chẳng thấy hang xưa ở đâu. Qua hôm sau, lúc 2 giờ chiều anh bất ngờ thấy mình đứng trước cửa cái hang “lẩn trốn” mà chỉ mình anh đã đặt chân tới hồi 1991. Lần nầy sự hoảng sợ thuồng luồng, thú dữ không còn đất đứng. Với nỗi vui mừng tột cùng, anh cầm đuốc lao sâu vào hang, để thấm thía lại ngọn gió táp vào mặt lạnh mát và nghe lại tiếng rít ngày nào tưởng đã mịt mờ trong ký ức. Anh nhớ lại lời dặn của ông Limbert nên hú lên mấy tiếng thật to để dựa vào tiếng vọng trở lại dài hay ngắn mà đoán biết được độ sâu, rộng của hang. Hú thật mạnh hơi, tiếng anh vang đi rất xa nhưng không hề dội trở lại: như thế hang này lớn và dài lắm. Tiếp tục vào sâu hơn 200 mét, sau những bước trèo lên nhảy xuống trên những tảng đá chênh vênh trong lòng hang càng vào thêm càng mở rộng và sâu hun hút, thấy tim mình như nghẽn mạch, nhưng Hồ Khanh đã nghe lại được tiếng nước chảy ầm ầm và tiếng gió rùng rợn như tiếng thuồng luồng xa xưa. Lần nầy trở ra, Hồ Khanh đã đánh dấu cẩn thận cửa hang, trước khi về nhà: anh biết rằng anh sẽ không thể tha thứ cho mình thêm lần thứ nhì, và nhất là không có thêm mười bảy năm khác để lạc bước, để bị ám ảnh, và để lùng tìm lại cái hang sâu kỳ diệu nầy, cái hang mà anh không hề biết là phá kỷ lục thế giới.

Giữa tháng 3/2009, lại cũng chính nhà khoa học Howard Limbert dẫn đầu đoàn khảo sát Hoàng gia Anh từ châu Âu trở lại Sơn Trạch tìm Hồ Khanh, để cùng anh lên kế hoạch và dẫn đường tới cái hang mà anh có công phát hiện, bỏ quên, và tìm lại. Ngày 6-4, anh dẫn đoàn đến cửa hang sau khi nghỉ lại một đêm giữa rừng tại khu vực hang Én. Vừa tới cửa hang, mọi người đã nghe tiếng gió khuấy động trong hang ào ào. Biết là hang có thật như anh đã nói, ông Limbert bắt tay chúc mừng Hồ Khanh, và mừng cho cả việc tìm ra hang mới. Hang quá tối nên không thể thấy hết được vẻ đẹp của nó với nhiều thạch nhũ rũ xuống từ trần hang. Với ánh sáng chập chờn của đèn soi, lần bước đi trong lòng hang rất khó khăn, nhiều đoạn phải dùng dây thừng để tiến vào sâu hơn. Trong hang có nhiều nước và cả suối chảy xiết nên không khí mát lạnh. Càng vào sâu trong hang động nầy, từng chùm thạch nhũ già là loại mọc từ nền hang lên tới trần, và nhũ non tức loại mọc từ trần hang buông xuống lưng chừng, ở những chỗ đang có nước nhỏ giọt tí tách. Nhật ký của đoàn ghi nhận: “Vào gần 3 km thì hang phát lộ một vòm cao hun hút. Ánh sáng nơi đây vỡ oà vì nhìn thấy được mặt trời. Phía dưới hang là con sông ngầm sâu hun hút, nước chảy cuồn cuộn, mát lịm, trong vắt như pha lê giữa những rặng thạch nhũ điệp trùng. Trong hang còn tồn tại một cánh rừng nguyên sinh cả trăm năm tuổi với một thảm thực vật cực kỳ phong phú. Sau khi đi được sâu vào 7,3 km chiều dài trong hang, đoàn thám hiểm phải trở lại. Vị trí hang được đoàn định vị trong hệ GPS toàn cầu. Sơn Đoòng có vị trí trên bản đồ hang động thế giới, với một vị thế là hang lớn nhất thế giới đến thời điểm này.”

Sau khi tiến sĩ Howard Limbert công bố hang mới ở Việt Nam, nhiều tờ báo lớn ở nước ngoài như Daily Mail, Telegraph, The Sun, Breitbart, Newser… đồng loạt đăng tải về tuyệt tác hang Hồ Khanh, nay cãi danh thành hang Sơn Đoòng. Tờ Daily Mail đã chạy tít lớn trên trang nhất “Các nhà thám hiểm người Anh tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm… trong hang động lớn nhất thế giới”, còn tờ Telegraph ghi nhận sự công khó của Hồ Khanh, nêu đích danh anh là người đã tìm thấy hang Sơn Đoòng từ năm 1991.

Nguyệt san National Geographic số phát hành tháng 01/2011 đã dành 22 trang để trịnh trọng đăng tải bài viết của Mark Jenkins, kèm với những hình chụp tuyệt diệu của nhiếp ảnh gia lừng danh Carsten Peter. Bài báo cũng gọi bức tường đá vôi cao 200 feet trong lòng hang Sơn Đoòng chắn ngang hành trình thám hiểm lần thứ nhất của họ là Vạn Lý Trường Thành của Việt Nam, với hy vọng trong những chuyến thám hiểm kế tiếp họ có thể đi sâu hơn trong lòng đất đá Việt Nam để ghi nhận những dữ kiện kỷ lục địa chất mới.

oOo

Ngay sau bài báo của National Geographic, phóng viên Thời Báo đã liên lạc với anh Nguyễn Duy An, người Á châu đầu tiên giữ chức vụ Senior Vice President của cơ quan National Geographic Society để tìm hiểu thêm. Chúng tôi đã nhận được thư trả lời của anh An, nhưng rất tiếc anh ấy đang trên đường về thăm quê Bình Giả, đến sau tết âm lịch mới trở lại Mỹ.

Chúng tôi mong mỏi anh Nguyễn Duy An sẽ dành cho độc giả Thời Báo những bài viết anh ghi nhận được trong chuyến đi kéo dài nầy. Trong khi chờ đợi, xin mượn một đoạn tâm sự của anh An viết hồi tháng 2/2010 thay cho lời kết bản tin về hang Hồ Khanh nầy:

“Tôi biết có những người Việt ở Hải Ngoại đã trở về với tâm huyết đóng góp một bàn tay xây dựng quê hương nhưng lại bị ‘vắt chanh bỏ vỏ’ ôm hận ra đi. Tôi cũng biết có những người đã được chính phủ Việt Nam mời về “tham quan” trong những dịp lễ hội linh đình để rồi khi trở ra hải ngoại bị cộng đồng người Việt chống đối tẩy chay. Rồi cũng có những người đã lợi dụng lúc ‘tranh tối tranh sáng’ trở về Việt Nam để làm giầu nhưng rồi lại phải tay trắng ra đi…

Tôi đã rời bỏ quê hương yêu dấu Việt Nam ra đi tìm tự do trên một chiếc thuyền tre nhỏ bé từ năm 1983 nhưng lúc nào cũng canh cánh bên lòng nỗi nhớ thương những người còn ở lại. Thời gian tôi sống tại Mỹ đã dài hơn quãng đời tôi được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, nhưng lúc nào cũng ôm ấp một giấc mơ sẽ phải làm một chút gì đó cho quê Mẹ. Làm sao? Tôi biết phải làm sao? Hàng triệu người dân Việt vẫn ‘cơm không đủ no, áo không đủ ấm’ lại còn phải đương đầu với thiên tai bão lụt hằng năm trên mảnh đất cong cong hình chữ S bên bờ biển Thái Bình Dương. Tại hải ngoại, có rất nhiều bạn trẻ rất nhiệt tình tham gia những chương trình cứu trợ, y tế và giáo dục tại Việt Nam; tuy nhiên, cũng có rất nhiều hội đoàn và cộng đồng quyết liệt chống đối những chương trình này cho tới khi thay đổi đuợc chế độ đang cầm quyền tại Việt Nam. Ai đúng? Ai sai?”

NgyThanh

Memphis, TN 28/12/2010

 

 

18 tệp đính kèm — Rất tiếc… Hiện tại, chương trình quét virut đang gặp sự cố. Nếu tải về bạn phải tự chịu rủi ro, hoặc thử lại sau.   Xem tất cả ảnh
Bản đồ khu hang động Phong Nha.jpg
200K   Xem Tải xuống
Chuẩn bị xuống hang sâu để thám hiểm.jpg
776K   Xem Tải xuống
Chuyên gia hang động Tim Allen đang xem xét lòng Hang Nai trước đây được xem là lớn nhất thế giới ở Công viên quốc gia tại Sarawak, Borneo thuộc Malaysia.jpg
190K   Xem Tải xuống
Cửa vào Động Phong Nha – Ảnh Wikipedia.jpg
774K   Xem Tải xuống
Đoàn thám hiểm của tiến sĩ Howard Limbert trong rừng nguyên sinh.jpg
70K   Xem Tải xuống
Đoàn thám hiểm phải vượt nhiều suối và núi mới tới được Sơn Đoòng.jpg
601K   Xem Tải xuống
Đường bộ dẫn du khách xuống hang Mammoth ở tiểu bang Kentucky, hang dài nhất nước Mỹ – Ảnh Wikipedia.jpg
760K   Xem Tải xuống
Hang Hồ Khanh – Ảnh Howard Limbert.jpg
791K   Xem Tải xuống
Hồ Khanh (người đứng giữa) trên lộ trình vượt rừng đưa đoàn thám hiểm Hoàng Gia Anh tới hang Sơn Đoòng.jpg
52K   Xem Tải xuống
Hồ Khanh (người thứ nhì từ trái) và đoàn thám hiểm hang Sơn Đoòng.jpg
875K   Xem Tải xuống
Hồ Khanh, người phát hiện và đặt tên hang Sơn Đoòng.jpg
752K   Xem Tải xuống
Kết quả khảo sát của Hội Hang Động Vương Quốc Anh.jpg
388K   Xem Tải xuống
Một cảnh chụp ngược sáng từ trong hang ra ngoài.JPG
949K   Xem Tải xuống
Người dẫn đường mà tên đã được hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đặt cho hang Khanh.jpg
388K   Xem Tải xuống
Nước đổ từ suối ngầm trong hang HỒ KHANH – Ảnh BARM.jpg
613K   Xem Tải xuống
Trên đường thám hiểm.jpg
559K   Xem Tải xuống
Trong lòng Hang DEER ở Công viên quốc gia tại Sarawak, Borneo thuộc Malaysia — trước đây được xem là lớn nhất thế giới – Ảnh Robbie Shone.jpg
941K   Xem Tải xuống
Trưởng toán thám hiểm hang HỒ KHANH, tiến sĩ Howard Limbert.jpg
96K   Xem Tải xuống

Bình luận về bài viết này