GIÁ ĐO-LA HẠ TỚI MỨC NÀO ? KHI NHÂN LÊN CƯỜNG ĐỘ ĐỘC CHIÊU QE2 $600 TỈ:

GIÁ ĐO-LA HẠ TỚI MỨC NÀO ?

KHI NHÂN LÊN CƯỜNG ĐỘ

ĐỘC CHIÊU QE2 $600 TỈ:

 

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 17.11.2010

Web: http://VietTUDAN.net

 

 

Cuộc Họp thường niên 8-9/10/2010 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF/FMI) tại Washington gồm 178 Đại diện Tài chánh các nước được giao trách nhiệm tìm giải quyết cho Chiến tranh Tiền tệ manh nha đã zừ lâu, nhưng hiện ra rõ từ tháng 9/2010 khi FED có ý định xử dụng QE (Quantitative Easing/ Planche à Billet/Rót Tiền mới vào Lưu hành). Tỷ giá Đo-la giảm xuống làm giao động Tiền tệ các nước khác theo chiều hướng tăng khiến Ngân hàng Trung ương các nước phải can thiệp để hạ tỷ giá nhằm giữ tính cạnh tranh Thương mại. Giới Ngân Hàng và Tài chánh  chờ đợi xem FED quyết định cho rót vào Lưu hành số lượng bao nhiêu Đo-la.

 

Quỹ Tiền tệ Quốc tế không đủ thẩm quyền giải quyết Chiến tranh Tiền tệ này và đã dào lại nhiệm vụ cho cuộc Họp thượng đỉnh G20 tại Nam Hàn.

 

Ngày 22-23/10/2010, các Bộ trưởng Tài chánh và Thống đốc Ngân Hàng của G20 họp tại GYEONGJY (Nam Hàn) để tìm giải quyết sửa soạn cho quyết định của cuộc Họp thượng đỉnh G20 tại SEOUL vào những ngày 11-12/11/2010.

 

Tình hình trở thành rất căng thẳng vì mỗi nước tính toán những quyền lợi Kinh tế, Thương mại riêng rẽ cho mình. Sự căng thẳng càng trầm trọng hơn nữa khi Trung quốc tuyên bố  không thể tăng Tỷ giá đồng Yuan vì lo sợ thụt lùi Kinh tế tạo căng thẳng Xã hội và đưa đến nguy cơ cho Cơ chế Chính trị hiện hành.

 

Trong tình trạng căng thẳng như vậy, cuộc Họp G20 Gyeongjy đã cố tình đề nghị giải quyết “lạc đề“ là bàn về việc điều chỉnh Cán Cân Thăng bằng Mậu dịch Quốc tế. Chúng tôi gọi là “lạc đề“ vì lý do chính của Chiến tranh Tiền tệ là quyết định độc đoán và gian giảo của Trung quốc cố thủ giữ Tỷ giá đồng Yuan thấp để hỗ trợ bất chính cho Xuất cảng hàng hóa của mình.

 

Cuộc Họp thượng đỉnh G20 Seoul 11-12/11.2010 tiếp tục thảo luận việc “lạc đề“ cố tình này. Thậm chí TT.Obama còn ve vuốt Trung quốc là có thiện chí hứa tăng dần dần Tỷ giá đồng Yuan.

 

Kết quả Họp G20 đi về đâu ? Các nhà quan sát đồng loạt nói Họp Thượng đỉnh G20 Seoul không đi đến một giải pháp chung thiết thực giải quyết Chiến tranh Tiền tệ, mà chỉ căng miếng vải bọc lấy những sôi sục Tiền tệ để tránh phần nào sự bùng cháy chuyển sang Chiến Tranh Thương Mại.

 

Việc lạc đề này có thể là một chiến thuật đánh trống lảng của Mỹ bởi vì FED đã thực sự xuất Chưởng độc QE2 với $600 tỉ. Đây là độc chưởng đánh thẳng vào Chiến tranh Tiền tệ, không một chút gì nương rẹ.

 

Sức chưởng đang lan tràn. Khi viết về độc chiêu QE2, chúng tôi đã tránh nói về sự biến hóa tăng cường độ của FED qua giới hạn $600 tỉ.  Một số Chuyên viên Tài chánh quen với những biến hóa lượng tiền của FED cũng đã nhắc tới điểm này, nhưng khi viết, chúng tôi cố tình không động chạm tới. Ngay trong cuộc Phỏng vấn của Đài RFI thứ Sáu 12.11.2010, ngày kết thúc cuộc Họp thượng đỉnh Seoul, chúng tôi cũng mới giả thiết rằng nếu FED quyết định cho biến hóa QE2 với $600 tỉ, thì đồng Đo-la có thể còn hạ thấp hơn mức độ mà người ta ước tính cho việc rót vỏn vẹn số lượng $600 tỉ.

 

 

Chú thích giáo khoa về một vài ý niệm Tiền tệ

 

Khi viết và phổ biến loạt bài về Chiến tranh Tiền tệ và độc chiêu QE (Quantitative Easing), một số độc giả viết hỏi tôi về Tỷ giá, về Vàng, về Bretton Woods là gì mà lúc này người ta nhắc tới, về tương quan Cán Cân Thương mại với Tỷ giá đồng nội tệ. Chúng tôi xin phép các Vị thức giả về Tiền tệ cho phép tôi viết tóm lược một số ý niệm có tính cách giáo khoa về Tiền tệ.

 

*       Tiền tệ có chức năng làm trung gian trao đổi hàng hóa.

 

Đồng tiền của một nước – chính thức là Giấy Bạc đã được cho vào lưu hành – mang những tính chất căn yếu sau đây:

=>       Tính khan hiếm (Rareté): không thể mọi người lượm Giấy Bạc như là lượm lá mùa thu rơi đầy trong rừng. Đồng tiền lượm được như lá mùa thu không còn giá trị nội tại nữa.

=>       Tính dài hạn trong thời gian (Durabilité dans le temps): đồng tiền phải tồn tại lâu ngày, chứ không như rau cỏ để chừng một tuần bị héo úa vất đi. Tính cách lâu dài này cho phép người cầm đồng tiền tích trữ tài sản trong thời gian (stockage des valeurs dans le temps). Chính vì điểm này mà khi một đồng tiền quá thay đổi, người dân tìm đến vàng không thay đổi giá trị trong thời gian.

=>       Tính phổ quát (Universalité): đồng tiền càng được quý chuộng khi nó mang tính cách phổ quát, nghĩa là nhiều người xử dụng nó. Tỷ dụ đồng Đo-la phổ quát hơn đồng Yuan vì có nhiều người nhận việc thanh toán thương mại bằng Đo-la, chứ chưa nhận đồng Yuan. Mang tiền Đồng Việt Nam đi mua hàng ở Thụy sĩ, người ta không nhận, trong khi đó người ta nhận tiền Euro. Việc nước khác chấp nhận một đồng tiền không phải là do sức mạnh quyền lực áp đặt mà do sự chấp nhân từ dân chúng. Thụy sĩ là một nước nhỏ, không có quyền lực như Trung quốc, nhưng đồng tiền Thụy sĩ có thể được chấp nhận tại bất cứ nước nào.

 

Trở lại chức năng của Tiền là làm trung gian trao đổi hàng hóa. Với chức năng này, khối tiền lưu hành không phải chỉ nguyên có những tờ Giấy Bạc phát hành do Ngân Hàng Trung ương, mà còn bao gồm tất cả những Văn Bản do Ngân Hàng tư nhân, do Bảo Hiểm phát hành có khả năng trao đổi hàng hóa. Những Văn Bản này lưu hành, tỉ như : PN (Promissory Note), Bảo Lãnh Ngân Hàng (Bank Guarantee/ Standby Letter of Credit), Bảo Hiểm Đời sống (Life Insurance) hoặc thế giới Credit Cards… Những phương tiện trao đổi hàng hóa này chỉ cần 20% Cash Deposit, thì người ta có thể phát hành Văn Bản thanh trả tới 100%. Đây là phương tiện thổi phồng khối Tiền tệ đang lưu hành và dễ đưa đến Lạm phát, chứ không cần rót thêm lượng tiền vào lưu hành. Chính vì điểm này, chúng tôi sẽ nói về những biến hóa nhân lượng độc chiêu QE $600 tỉ của FED.

 

*       Tỷ giá Hối đoái

 

Giá đồng Tiền nội tệ được định giá một cách độc lập từ mỗi nước. Tùy Chế độ Bản vị Tiền tệ, mà đồng tiền mỗi nước định giá trị độc lập cho đồng tiền của mình. Nhưng khi đem đối chọi giữa hai đồng tiền, thì phải định giá trị của đồng tiền này đối với đồng tiền kia. Tỷ giá có nghĩa là so sánh (Tỷ) giá trị của một đồng tiền với giá trị của đồng tiền nước khác.

 

Trong Chế độ Bản vị Vàng (Régime Etalon-Or), nghĩa là đồng Tiền mỡi nước đước định giá độc lập tương đương với bao nhiêu cân lượng vàng. Khi so sánh hai cân lượng vàng, người ta biết Tỷ giá hai đồng Tiền. Trong chế độ Bản vị gián tiếp Đo-la—Vàng (Régime Etalon-Devise Dollar-Vàng), Tỷ giá hai đồng tiền được định theo số lượng Đo-la mà mỗi đồng nội tệ đã được quyết định một cách độc lập. Với Chế độ này, Tỷ giá giữa hai đồng nội tệ trở thành bấp bênh vì nó lệ thuộc vào lượng Đo-la lưu hành. Năm 1971, TT.NIXON đã hủy bỏ tính hóan chuyển Đo-la sang Vàng, vì vậy Tỷ giá các đồng tiền càng tùy thuộc vào Chính sách Tiền tệ của Hoa kỳ. Từ năm đó, đồng nội tệ mỗi nước được định theo khả năng tương đương hàng hóa. Hàng hóa dồi dào hay khan hiếm lại tùy thuộc tình trạng lên xuống Kinh tế của mỗi nước. Tỷ giá các đồng Tiền càng trở thành bấp bênh, trôi nổi (Flottant)

 

*       Breeton Woods là gì ?

 

Trong những tháng Chiến tranh Tiền tệ, xáo trộn Tỷ giá các đồng Tiền mới đây và nhất là giá Vàng tăng vọt, người ta nhắc nhiều đến Bretton Woods.

 

Bretton Woods là Hội nghị Quốc tế về Tiền bạc năm 1944. Đó là giao điểm chuyển tiếp từ Chế độ Bản vị Vàng (Régime Etalon-Or) sang Chế độ Bản Vị Đô-la—Vàng (Régime Etalon-Devise ($)-Vàng. Trong thời gian Thế Chiến thứ II, các nước Âu châu, trừ Thụy sĩ, mất hết Vàng để làm bảo chứng cho định nghĩa nội tệ. Hoa kỳ còn giữ được kho Vàng khổng lồ, nên mời cuộc Họp Bretton Woods năm 1944 để quyết định hai việc quan trọng:

=>       Đồng Đo-la vẫn được định nghĩa giá trị trên Bản vị Vàng. Tiền của những nước không còn Vàng, thì định nghĩa nội tệ qua trung gian đồng Đo-la. Xin lưu ý là Hội nghị Bretton Woods không độc đoán bó buộc các nước phải chấp nhận Đo-la làm trung gian với Vàng. Họ có thể lấy đồng Swiss Franc làm trung gian vì Thụy sĩ còn vàng. Nhưng số lượng Vàng của Thụy sĩ không đủ cho khối lượng Tiền lưu hành phổ quát khắp Thế giới, nên các nước nhận đồng Đo-la làm trung gian với Vàng là Bản vị.

=>       Thành lập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF/FMI). Khởi đầu Quỹ Tiền tệ Quốc tế chỉ là một Quỹ tương trợ Tiền tệ (Entre-Aide monétaire), nghĩa là những nước yếu về Tiền tệ có thể nhờ Quỹ cho vay một số Tiền để hỗ trợ. Trong những năm trường, Hoa kỳ đã đóng góp vào Quỹ này tới 80%. Dần dần, Quỹ tăng Hội viên và tăng đóng góp của những nước khác.

 

Ngày nay, một số nước có ý định chống lại thống trị của đồng Đo-la và những trôi nổi bấp bênh của Tỷ giá, nên nhắc lại Bretton Woods 1944 nhằm lấy Vàng làm Bản vị cho vững, đồng thời muốn thiết lập một loại Tiền khác với Đo-la. Ý tưởng này được Trung quốc cổ võ với nhã ý chiều chuộng mơn trớn của TT.Sarkozy. Trước cuộc Họp G20 Séoul, Hồ Cẩm Đào sang Paris thăm và ký kết những Hợp đồng trị giá USD.16 tỉ với TT.Sarkozy. Phải chăng đây là một thứ hối lộ nhẹ nhàng. TT.Sarkozy là Chủ tịch của G20 bắt đầu sau cuộc Họp G20 Séoul.

 

Chúng tôi đã viết một bài về ĐỒNG ĐO-LA VẪN THỐNG TRỊ vì những lý do sau đây:

(i)         Như trên chúng tôi đã nói về những cá tính của một đồng Tiền trong đó Tính Phổ Quát (Universalité) là quan trọng. Một quyền lực không thể ấn định tính Phổ quát, mà phải là do Dân chấp nhận hay không. Hiện nay Dân vẫn chấp nhận Đo-la 80% cho những thanh trả Thương mại Thế giới.

(ii)        Nếu dùng Vàng làm Bản vị, thì ai có thể cung cấp lượng Vàng bằng Hoa kỳ. Vả lại không thể có lượng Vàng khổng lồ bao trùm mọi Lưu hành và Dự trữ Tiền tệ Thế giới. Chính TT.Nixon đã phải từ chối nhiệm vụ này từ năm 1971.

(iii)       Một điểm bế tắc nữa là nếu lấy Bản vị là Vàng cho đồng Tiền, thì phải cấm Thị trường buôn bán Vàng. Thực vậy, định nghĩa đồng tiền trên bản vị vàng, thì không thể mỗi ngày mỗi định lại bản vị, nghĩa là bản vị mang tính cách cố định tối thiểu trong một thời gian, trong khi đó Thị trường buôn bán Vàng thì thay đổi như chong chóng mỗi ngày theo luật Cung—Cầu.

 

*       Tương quan Cán Cân Thương Mại và Tỷ giá Hối đoái

 

Năm 1971, TT.Nixon tuyên bố không còn việc hoán chuyển đồng Đo-la sang Vàng nữa như cuộc Họp Bretton Woods 1944 quyết định Chế độ Bản Vị Đo-la – Vàng (Régime Etalon-Devise $-Vàng). Tại sao vậy ? Lý do là Pháp, với TT.De Gaulle, yêu cầu Mỹ phải chuyển Vàng đổi lấy khối Euro-Dollar mà Pháp đang giữ. Đồng thời khối A-rập, vì Chiến tranh với Do Thái mà Mỹ hỗ trợ, nên yêu cầu Mỹ phải chuyển Vàng đổi lấy Petro-Dollar họ giữ. Hoa kỳ không thể nào có đủ khối vàng để thỏa mãn yêu sách có tính cách Chính trị này, nên TT.Nixon tuyến bố chấm dứt hóan chuyển Đo-la sang Vàng.

 

Từ đó, Tỷ giá các đồng Tiền trôi nổi trong Chế độ Khả năng tương đương hàng hóa (Régime du Pouvoir d’Achat de la Monnaie).

 

Đồng tiền của của mỗi nước lên giá hay xuống giá tùy khối lượng hàng hóa tương đương bảo chứng. Tất nhiên trong Chế độ Tiền tệ này, thì giá trị nội tệ tùy thuộc Cán Cân Thương Mại thặng dư hay thiếu hụt và tùy thuộc Kho Dự trữ ngoại tệ (Đo-la chính yếu) nhiều hay ít. Các nước thi nhau dự trử ngoại tệ Đo-la làm bảo chứng cho giá trị đồng nội tệ.

 

Cán Cân Thương Mại của Đức thặng dư nên đồng Mark Đức tăng giá trị. Cán Cân Thương Mại của Thụy sĩ thường thiếu hụt, nhưng đồng Franc Thụy sĩ đứng vữ vì những người muốn cất giữ tiền bạc đã chuyển thẳng ngoại tệ vào Thụy sĩ để bù cho việc thiếu hụt Cán Cân Thương Mại.

 

Trước cuộc Họp Thượng đỉnh G20 Séoul, Bà Thủ tướng Đức Angela MERKEL đã thẳng thắn khẳng định rằng Tỷ giá đồng Yuan không thể thấp tới 40% đới với Đo-la vì những lý do sau đây:

=>       Trung quốc có Cán Cân Thương Mại thặng dư đã nhiều năm nay

=>       Trung quốc có kho dự trữ ngoại tệ (US.Dollar) khổng lồ tới USD.2’500 tỉ

=>       Ngược lại, Hoa kỳ (đồng Đo-la) có Cán Cân Thương Mại thiếu hụt đối với chính Trung quốc.

 

Vì vậy Bà kết luận rằng việc Tỷ giá đồng Yuan thấp đối với Đo-la chỉ là độc đoán, chứ không theo luật tự điều chỉnh của Thị trường Hối đoái tương quan với Cán Cân Thương Mại và Khối Dự trữ ngoại tệ.

 

 

Quyết định xuất Độc chiêu QE2 với $600 tỉ

 

Nếu hai cuộc Họp G20 tại GYEONGJY và tại SEOUL chỉ nói lạc đề để làm giảm tình trạng căng thẳng của Chiến tranh Tiền tệ, thì  FED với tư cách độc lập về những biện pháp Tiền tệ đã lạnh lùng xuất độc thủ QE (Quantitative Easing) rót $600 tỉ vào lưu hành vì quyền lợi của Mỹ, mặc cho Trung quốc tiếp tục ương ngạnh cố chấp.

 

Với 9 Phiếu thuận trên 1, FED cho xuất chưởng Đo-la ngày 03.11.2010.

 

1)      Hoàn cảnh xuất chiêu QE2

 

Hoa kỳ đang ở trong hoàn cảnh lo sợ một cuộc Khủng hoảng Kinh tế lớn. Có những chỉ số làm lo ngại Khủng hoảng Kinh tế như những năm 1930:

 

=>       Phía Tiêu thụ có chiều Giảm giá (Déflation). Vào những năm 1930, Hoa kỳ gặp phải Đường xoắn Tụt giá không ngừng được (Spirale déflationniste). Khi Giảm giá như vậy, thì Sản xuất không bán được và các Công ty thải thợ. Tăng thất nghiệp có nghĩa là khả năng Tiêu thụ càng giảm để kéo theo Giảm giá nữa. Tình trạng này đã chứng kiến cảnh các xí nghiệp phải thiêu hủy hàng hóa. Nếu quý vị xem các Phim Charlot, thì thấy Charlot triền miên thất nghiệp vào những năm Khủng hoảng này. Nhìn về Phía Sản xuất, người ta thấy triệu chứng ngưng đầu tư hiện nay.

 

=>       Thất nghiệp tăng gần 10%. Thất nghiệp không phải chỉ là vấn đề Xã hội, mà là vấn đề Kinh tế bởi vì nhiều người không có Lương, thì khả năng Tiêu thụ xuống. Mà nếu Tiêu thụ xuống, thì Sản xuất cũng theo đó mà giảm để càng đẩy phía Tiêu thụ giảm xuống nữa. Chính Tiêu thụ hướng dẫn kích thích Sản xuất.

 

=>       Trong khi ấy Cán Cân Mậu Dịch thua lỗ trong tháng 9 vừa rồi tới USD.46 tỉ, nghĩa là Hoa kỳ không thể nhằm Mãi lực của các nước ngoài để tăng xuất cảng. Không những thế Trung quốc vẫn lưu manh, ương ngạnh giữ Tỷ giá đồng Yuan thấp đối với Đo-la để cho hàng hóa tràn vào Hoa kỳ nhằm moi những đồng xu cuối cùng của dân Hoa kỳ. Hoa kỳ yêu cầu Trung quốc tăng Mãi lực của khối người 1 tỉ 300 triệu của họ để Hoa kỳ có thể xuất cảng hàng hóa sang khối dân này. Nhưng Trung quốc không những không làm, mà còn tìm cách ngăn chặn hàng ngoại nhập vào. Tỉ dụ cụ thể là Trung quốc tăng thuế nhập cảng thịt gà đông lạnh của Mỹ lên tới 105%. Hoa kỳ cũng đã làm áp lực để Trung quốc tăng Tỷ giá đồng Nhân Dân Tệ, nhưng Trung quốc ương ngạnh đưa ra những lời hứa gian manh. Ts BERNANKE thấy rằng Hoa kỳ nắm 80% thanh khoản thương mại Thế giới, nên không cần phải áp lực hay năn nỉ Trung quốc về Tỷ giá đồng Yuan nữa, mà tự mình quyết định hạ giá Đo-la để tăng xuất cảng của Hoa kỳ, như vậy làm giảm việc mất thăng bằng Cán Cân Mậu Dịch.

 

Với hòan cảnh như trên, FED đưa ra để biện minh cho việc xuất chưởng QE2 của mình

 

2)      Mục đích nhằm tới của QE2

 

Như trên đã nói, QE có nghĩa là in tiền mới ra và rót vào Khối lượng Tiền tệ đang lưu hành. Vào những năm 1930, KEYNES, Nhà Toán học kiêm Kinh tế gia, đã chủ trương những Công trình Xây dựng công lớn lao (Grands Travaux Publics) như xây cất những Công viên Quốc gia, Cầu cống , Đường sá, Dinh thự hành chánh, Đập nước. Những công trình này nhằm làm giảm số người thất nghiệp, đồng thời khi những người này có lương, thì Mãi lực Tiêu thụ tăng và đó đó các Công ty sản xuất bắt đầu tăng đầu tư. Như vậy mới có thể chặn đứng Đường xoáy Tụt giá được (Spirale déflationniste). Làm thế nào để có Tiền chi tiêu cho những Công trình lớn xây dựng ? KEYNES đề nghị Chính sách Tài chánh “Déficit Budgétaire“, nghĩa là Nhà nước vay nợ để tài trợ cho những Công trình. Nhưng ngày nay, nợ nần của Hoa kỳ đã chồng chất, không thể vay nợ nữa để chuyển món nợ ấy cho Thế hệ con cháu phải trả.

 

Ngân Hàng Trung ương thường dùng hai phương tiện để ảnh hưởng tới nền Kinh tế thực, đó là Lãi suất Chỉ đạo và Rót Tiền mới vào Kinh tế.

 

Về Lãi suất, thì Ts Ben BERNANKE đã xử dụng rồi. Lãi suất Chỉ đạo của Hoa kỳ hiện giờ đã xuống gần đến số không. Hạ Lãi suất chỉ đạo làm  cho giảm Tiết kiệm, nghĩa là cổ võ Tiêu thụ. Lãi suất cũng là cái Giá của vay vốn. Khi lãi suất hạ, thì các Công ty được cổ võ vay vốn đầu tư. Vì Lãi suất chỉ đạo Hoa kỳ đã xuống gần số không, nên Ts BERNANKE không thể hạ hơn nữa, nghĩa là không thể xử dụng Phương tiện Lãi suất để ảnh hưởng tới Kinh tế.

 

Chỉ còn Phương tiện thứ hai là Ngân Hàng Trung ương in tiền mới, rót vào lưu hành, nhằm những Mục đích sau đây:

 

=>       Tăng phương tiện Tiêu thụ cho dân chúng, nghĩa là tăng Phía Cầu để Kích thích phía Sản xuất. Các Công ty có số lượng vốn lưu hành tăng lên, do đó dễ dàng tăng đầu tư.

 

=>       Khi tăng Mãi lực Tiêu thụ cho dân chúng và tăng vốn Đầu tư cho các Công ty, thì Kinh tế trước hết không quản ngại việc Giảm giá (Déflation) hiện đang đe dọa, đồng thời làm xoay chiều Sản xuất theo hướng đi lên.

 

=>       Khi Kinh tế tránh được hướng Giảm giá (Déflation) và chuyển Kinh tế theo hướng đi lên, thì việc rót thêm Tiền vào lưu hành này đạt được Mục đích tối quan trọng lúc này là làm giảm Thất nghiệp xuống.

 

=>       Đứng về phương diện cán cân thương mại quốc tế, thì QE2 cũng có tác dụng lên Tỷ giá Hối đoái. Đồng Đo-la hạ giá xuống, nghĩa là Hoa kỳ dễ xuất cảng, đồng thời làm giảm hiệu lực của việc ương ngạnh gian manh giữ Tỷ giá đồng Yuan thấp đối với Đo-la. Đây là cách thế nhằm Cân bằng Cán Cân Mậu dịch quốc tế của Hoa kỳ.

 

3)      Chương trình thực hiện chiêu QE2

 

Khi quyết định xuất chiêu QE2 ngày 03.11.2010 rồi, FED đưa ra chương trình thực hiện gồm những điểm sau đây:

 

=>       Lượng Tiền mới Đo-la rót vào Lưu hành là USD.600 tỉ. FED không nói rõ sau lượng USD.600 tỉ, còn rót thêm lượng khác nữa hay không. Có lẽ việc tăng thêm lượng hay không còn tuỳ thuộc hiệu quả đạt những Mục đích trên đây như thế nào.

 

=>       Số lượng USD.600 tỉ được xử dụng mua những Trái phiếu Ngân khố Nhà nước từ nay cho đến tháng 6/2011, với tốc độ mỗi tháng mua USD.75 tỉ Trái khoán.

 

=>       FED canh chừng độ Lạm phát. Nếu Giảm giá (Déflation) nguy hiểm, thì Lạm phát (Inflation) cũng nguy hiểm không ít. Rót Tiền mới vào Lưu hành chắc chắn sẽ tạo Lạm phát. Nhưng FED lý luận rằng Kinh tế Mỹ hiện giờ đang sợ Giảm giá (Déflation), nên nếu có Tăng giá (Lạm phát), thì đó cũng là đối lực kìm hãm Giảm giá (Déflation). FED cũng cho thấy tình trạng Lạm phát hiện giờ còn khá nhỏ, nên không đáng ngại sợ về phương diện này cho lắm. Trước những lo ngại nguy hiểm Lạm phát mà Oâng Thomas HOENIG cũng như một số nhà Kinh tế lo ngại, FED tuyên bố đã có chương trình dự phòng điều chỉnh.

 

Với quyết định xuất chiêu QE2 này tung ra, FED không hề nhắc đến một câu than phiền cho sự ương ngạnh lưu manh của Trung quốc về Tỷ giá đồng Yuan. Trung quốc cũng không giám than rằng hạ giá Đo-la, tức là giảm nhẹ món nợ mà Hoa kỳ đang vay Trung quốc. FED cũng không có một câu về cuộc Họp thượng đỉnh G20 Séoul  ngày 12-13/11/2010 sắp tới này xem có đưa ra giải quyết cho Chiến Tranh Tiền Tệ hay không.

 

Không cần phải nhấn mạnh như lậy lục Trung quốc nữa, bởi vì FED giữ đàng chuôi của Khối Tiền Đo-la khổng lồ chiếm 80% những thanh toán Thương mại quốc tế. Làm chủ môn “Nhất Dương Chỉ“ QE (Quantative Easing) thì chỉ cần xuất chiêu khi đối phương cối chầy ương ngạnh. Đối phương ráng mà chịu.  Có tiền mà cho con nợ sức vóc mạnh khỏe vay (Quân đội mạnh nhất Thế giới), thì chủ nợ cũng mất ngủ lo lắng đêm ngày xem món nợ có bị mất hay không.

 

Tại cuộc Họp thượng đỉnh Séoul, vì sự quyết tâm lạnh lùng xuất độc chiêu QE này, mặc dầu TT.Obama, Bộ trưởng Geithner và những nguyên thủ G20 đánh lạc đề nhằm tránh căng thẳng chuyển Chiến tranh Tiền tệ sang Chiến tranh Thương Mại, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã họp riêng với TT.Obama để trở lại vấn đề ray rứt chính yếu là độc chiêu QE của FED. Thay vì công kích, mà có công kích thì Hoa kỳ vẫn đi tới, Hồ Cẩm Đào chỉ than thở về hâu quả của độc chiêu lên Kinh tế Trung quốc. Ông than thở:

 

=>       Giá hàng hóa lên cao và do đó những Đặt mua hàng Trung quốc bị giảm

=>       Đặt mua hàng giảm thì các Công ty thải thợ, thất nghiệp tăng tại Trung quốc

=>       Thêm vào đó, một số Công ty nước ngoài thấy không có lợi nữa và sẽ chuyển sản xuất sang các nước khác có lợi hơn

=>       Đồng Yuan tăng vọt Tỷ giá, thì tình trạng Lạm phát cũng tăng làm Dân chúng bất bình.

=>       Lạm phát tăng làm Dân chúng bất bình. Thất nghiệ tăng làm công nhân bất bình. Cả hai sẽ dẫn đến xáo trộn Xã hội và Chính trị

 

Trước khi nghĩ thương hại đến Kinh tế Trung quốc, thì Hoa kỳ phải nghĩ đến tình trạng Thất nghiệp tại Mỹ, tình trạng thiếu hụt cán cân Thương Mại và mối đe dọa Tụt giá của những năm 1930. Ai thương hại cho nước Mỹ đây ? Hãy vì mình mà đẩy độc chiêu QE đến cùng.

 

 

Những ủng hộ cho độc chiêu QE của FED

 

Hai bài báo ngày 16.11.2010, bốn ngày sau cuộc Họp G20 Séoul, từ hai học giả nổi tiếng viết để biện minh cho quyết định của Giáo sư Tiến sĩ Ben BERNANKE.

 

Bài thứ nhất từ Tiến sĩ Martin WOLF với đầu đề POURQUOI LA FED A RAISON (Bản dịch ra tiếng Pháp bởi Gilles BERTON) (TẠI SAO FED CÓ LÝ) đăng trên Le Monde 16.11.2010, p.2). Tiến sĩ Martin WOLF đã từng là Tổng Giám đốc Wold Bank tại Ấn Độ. Hiện nay Tiến sĩ là Bình luận gia trưởng cho tờ Financial Times.

 

Bài thứ hai từ Giáo sư Tiến sĩ Alan S.BLINDER với đầu đề IN DEFENSE OF BEN BERNANKE (ĐỂ BÊNH VỰC CHO BEN BERNANKE) đăng trên tờ The Wall Street Journal 16.11.2010, p.17.  Ts Alan S.BLINDER là Giáo sư Kinh tế tại Đại học Princeton.

 

Tiến sĩ Martin WOLF, sau khi nhắc lại mục đích của QE là để thực hiện hai trách nhiệm được nước Mỹ trao phó cho FED: (i) Giải quyết 10% Thất nghiệp và (ii) Canh chứng tình trạng Lạm phát, đã công kích chính Bộ trưởng Tài chánh Đức đã chỉ trích Hoa kỳ là “Currency Manipulator” trong khi ấy Hoa kỳ nói Trung quốc là “Currency Manipulator”. Theo Ts Martin WOLF, thì Trung quốc đã ương ngạnh kéo dài tình trạng “Currency Manipulator” để phục vụ một cách bất chính cho xuất cảng. Vì thái độ ương ngạnh bất chính của Trung quốc mà FED phải quyết định QE để cứu nước của mình.

 

Về những công kích tại chính Hoa kỳ, Ts Martin WOLF tóm tắt gọn lại rằng đó là những người lo lắng cho rủi ro Lạm phát. Theo Tiến sĩ, thì việc Lạm phát còn có thể điều chỉnh, trong khi ấy hoa kỳ đang lo ngại tình trạng tuột giá (Déflation) làm tê liệt Kinh tế Mỹ như những năm 1930. Chính hướng lên giá (Inflation) là đối lực ghìm lại tụt giá (Déflation).

 

Tiến sĩ Martin WOLF cũng phản biện lại những than thở từ nước ngoài về việc hạ giá Đo-la sẽ làm thiệt hại những Dự trữ ngoại tệ (Đo-la) trên thế giới. Theo Tiến sĩ, Hoa kỳ không bao giời khuyên các nước khác thu dồn Dự trữ Đo-la, nhất là không yêu cầu Ngân Hàng Trung quốc phải dự trữ khối lượng Đo-la tới 2500 tỉ.

 

Ngược lại, với chủ trương khuyến cáo Trung quốc xử dụng thu nhập Đo-la, thay vì dự trữ, thì phân phối làm tăng Mãi lực nội địa cho Dân chúng. Như vậy, các nước khác mới có thể xuất cảng sang Trung quốc.

 

Biện pháp QE2 là bắt ép Trung quốc phải tăng Tỷ giá đồng Yuan và hướng Trung quốc về việc làm tăng Mãi lực cho dân chúng.

 

Giáo sư Tiến sĩ Alan S.BLINDER cũng cùng những lý luận như trên để bênh đỡ chính sách Tiền tệ QE2. Giáo sư không ngần ngại công kích Bộ trưởng Tài chánh Đức là người công kích với những lời nói thô lỗ:

 

“But calling QE2 “currency manipulation “ is a grotesque abuse of language…

“More important, the U.S. is a soverign nation with a right to its own monetary policy.” (The Wall Street Journal 16.11.2010, p.17)

(Gọi QE2 là “gian giảo xử dụng đồng tiên “ là một sự lạm dụng thô lỗ về ngôn ngữ…

(Quan trọng hơn nữa, Hoa kỳ là một Quốc gia có quyền tối thượng với quyền quyết định cho Chính sách Tiền tệ riêng của mình).

 

 

Khả năng của FED biến hóa độc chiêu QE2

 

Khối lượng tiền thả vào lưu hành có thể được nhân lên nhiều hơn gấp bội. Nói đến lưu hành là nói đến tốc độ chạy nhanh hay chậm. Lợi nhuận tăng cao hay thấp là tùy thuộc vào chu trình hoàn thành chu trình ngắn hay dài. Đồng lương trả cuối tháng có tốc độ chi dùng chậm hơn là cũng cùng một số lương ấy mà được chia ra trả mỗi tuần. Đó là tốc độ quay của đồng tiền (Vitesse de Rotation de la Monnaie).

 

Như trong phần đầu chú thích về phát hành Văn Bản thanh toán Thương mại từ những Ngân Hàng tư, các Ngân Hàng chỉ cần giữ 20 Cash Deposit, có thể phát hành phương tiện thanh toán thương mại tới 100%, nghĩa là chỉ cần 20 triệu giữ trong Ngân Hàng, phương tiện thanh toán thương mại được phát hành lên tới 100 triệu. Nếu Phương tiện thanh toán ấy được chiết khấu để có Cash Deposit, thì với Cash 20%, Ngân Hàng khác lại nhân lên 100%. Cứ tiếp nối như vậy mà một chuỗi Ngân Hàng nhân lên làm thổi phồng những phương tiện thanh toán thương mại.

 

Lợi nhuận từ một số vốn hạn định không tùy thuộc hẳn vào lãi suất cao hay thấp, mà còn tuỳ thuộc vào tốc độ quy nhanh hay chậm để làm cho số vốn cố định sinh lời.  Hãy lấy một tỉ dụ như sau:

 

Với số vốn 100 đồng và với lãi suất 10% hàng năm. Nếu tốc độ quay số vốn là một năm, thì cuối năm số vốn ấy thu vào lợi nhuận 10 đồng. Nhưng nếu người có vốn cho vay hàng tháng chỉ với lãi suất 2%, thì cuối năm người có vốn thu vào 24 đồng. Cho dù lãi suất chỉ có 1%, nhưng người cho vay tìm cách cho chu trình rút lại hàng tuần, thì cuối năm họ thu vào được: 12 tháng x 4 tuần x 1% = 48 đồng.

 

Khả năng tăng tốc độ quay của chu trình đồng tiền ngày nay được thực hiện rất mau mắn với tốc độ điện tử. Ơû thời kỳ dùng truyền thông bằng Telex, tốc độ quay chậm. Tiếp theo đó là Telefax làm chu trình mau hẳn lên. Ngày nay Telefax được thay bằng E-Mail, độ quay chu trình càng mau hơn.

 

Trong những thập niên gần đây, một số trong giới Tài chánh chuyên môn thường nghe đến những tiếng như Rollover Programs, rồi High Yield Investment Programs. Thực hư như thế nào, ít ai tuyên bố. Nhưng có một điều khi động chạm đến vấn đề này, người ta thường nói đến quyền của FED: nào là Fed Traders… Người ta nói đến FED như những người làm ảo thuật nhân Tiền.

 

Có những điểm chắc chắn, chứ không phải ảo thuật, mà chúng tôi có thể khẳng định về FED nhân Độc chiêu QE2 $600 tỉ tung ra:

 

=>       Số tiền $600 rót vào lưu hành từ nay cho đến hết tháng 6/2011.

=>       Việc tăng tốc độ quay chu trình lưu hành tiền thuộc quyền quyết định của FED

=>       Sau khi rót xong $600 tỉ, FED không nói là có rót thêm nữa hay không, nghĩa là việc tăng lượng tiền rót thêm có thể xẩy ra.

=>       Nếu FED chỉ cần tăng tốc độ quay lên gấp đôi, thì lượng tiền $600 tỉ sẽ trở thành $1’200 tỉ.

=>       Trên số tiền $600 tỉ này, FED có thể cho hệ thống Ngân Hàng thổi phồng lên những phương tiện thanh toán xử dụng cho các Công ty.

 

Không cần phải nói đến ảo thuật nhân tiền, mà chỉ cần nghĩ đến những khả năng có thực mà FED có thể xử dụng như vừa liệt kê trên đây, chúng ta cũng thấy những uyển chuyển nhân số lượng $600 lên gấp nhiều lần.  Việc xuống giá đồng Đo-la theo đó mà phỏng đoán.

 

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 17.11.2010

Web: http://VietTUDAN.net

 

Bình luận về bài viết này