Buồn vui tiếng nước tôi bài cùa Nguyễn Hữu Nghĩa
Buồn vui tiếng nước tôi
Nguyễn Hữu Nghĩa
Chữ Quốc ngữ có một lịch sử rất đặc biệt, sự khởi đầu của loại chữ viết này không diễn ra trong khung cảnh hoành tráng, nô nức của toàn dân mà âm thầm, lặng lẽ trong những cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé thuở ban đầu. Niềm hy vọng của các giáo sĩ ngoại quốc là, chữ Quốc ngữ, ngày nào đó không xa, sẽ trở thành phương tiện hữu hiệu nhất để truyền bá niềm tin Kitô giáo trên toàn cõi Việt Nam.
Thật táo bạo nhưng quá đỗi mơ hồ. Chữ Việt là chữ gì? Dựa trên nền tảng nào để sáng tạo chữ Việt. Quả là một thách đố hiểm hóc. Đối diện với thách đố này, con đường gai góc được vạch ra và trong quãng thời gian khoảng 50 năm, kết quả là đã có một loại chữ viết hoàn toàn mới đạt mức hoàn chỉnh cơ bản. Nói thì đơn giản, nhưng đường đi từ khởi thủy đến thành công chứa đựng không kể xiết nỗi vất vả, khó khăn. Nhìn lại tiến trình ấy, chúng ta cảm phục và biết ơn các nhà sáng tạo vì nhận ra những nỗ lực không ngừng, sự kế thừa, tính hợp tác và phương pháp làm việc của họ.
Sự sáng tạo văn hóa độc đáo này khi đã thành công lại khiến chữ Quốc ngữ – thành quả của nó phải chịu đựng những búa rìu từ nhiều hướng dư luận. Nhiều cuộc tranh luận, bút chiến đã nổ ra giữa những người có suy nghĩ, nhận định khác biệt nhau. Mỗi người nhìn chữ Quốc ngữ ở mỗi góc độ. Người ta có thể dễ dàng, nhanh chóng đồng ý với nhau về các giai đoạn hình thành, phát triển hoặc những luận giải khoa học mang tính đặc trưng của ngôn ngữ. Nhưng mục đích sâu xa của những người sáng tạo ra chữ Quốc ngữ lại là một vấn đề gai góc và là nguyên nhân chính yếu khiến các tranh luận kể cả những xung đột đã xảy ra. Các quan điểm đối lập nhau gay gắt, các tác giả nếu có viện dẫn những sự kiện lịch sử thì cũng chỉ nhằm biện giải cho quan điểm của mình. Sự khắt khe trong việc làm rõ mục đích tối hậu của chữ Quốc ngữ có lúc đã đi đến mức cực đoan. Người thương cũng lắm kẻ không ưa cũng nhiều.
Chữ Quốc ngữ với chức năng khởi thủy là một phương tiện truyền bá niềm tin Kitô giáo, trong các giai đoạn tiếp nối nó là phương tiện để trao đổi văn hóa, nghệ thuật, khoa học và còn là vũ khí sắc bén để cải tạo xã hội. Chữ Quốc ngữ bị tẩy chay rồi lại được tung hô, nhưng những người tạo ra nó lại trở thành kẻ tội đồ vì, trong những nhận thức khuôn khổ nào đó, chữ Quốc ngữ bị nghi ngờ và tệ hơn nữa là, bị quy kết rằng nó được tạo ra chỉ nhằm phục vụ mục đích chính trị.
Người dân sử dụng Quốc ngữ nhưng chữ Quốc ngữ không thể được xem là vấn đề cá nhân. Mỗi nhóm hoặc mỗi cá nhân đều có quyền đưa ra ý kiến nhưng xin hãy tôn trọng các ý kiến khác biệt. Không một áp đặt nào có thể biến sai thành đúng hoặc ngược lại. Đám đông có thể đúng nhưng đám đông cũng có thể bị dẫn dắt. Vì vậy, sự thật khó có thể hiện diện trong những suy đoán áp đặt chủ quan. Chỉ khi chấp nhận cùng nhau xem xét các khác biệt trong những bối cảnh lịch sử cụ thể một cách khách quan thì mới hy vọng tìm ra quan điểm chung. Đến nay, vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy việc tranh luận có khả năng chấm dứt.
Chữ Quốc ngữ hiện diện như một sản phẩm văn hóa siêu đẳng. Người Việt nam sử dụng chữ Quốc ngữ nhưng bản thân nó lại là tài sản chung của nhân loại. Nó tồn tại vì sự hợp lý của chính nó. Vì thế, không ai có thể giới hạn nó vào một lãnh vực, một không gian hoặc một dân tộc nào.
Chúng tôi không dám dấn thân vào các vấn đề còn ẩn chứa đầy gai góc, cũng không tung hô hoặc phê phán một quan điểm nào, chỉ đơn giản là, nhìn lại một chặng đường phát triển văn hóa như một định mệnh đẹp trong lịch sử với lòng tri ân sâu xa những con người xa lạ đầy can đảm. Trên con đường phụng sự lẽ thật và tha nhân, những việc họ làm chứng tỏ một cách hiển nhiên rằng, sự cộng hưởng giữa đức tin với tình yêu thương có thể tạo ra nhiều thành quả tốt đẹp; hơn thế nữa, nếu cùng phối hợp với các trí tuệ phi thường, với lòng kiên nhẫn vô biên; hoa trái sinh ra chính là những kỳ công chói lọi mà lợi ích bội thu đến muôn đời.
Chữ Quốc ngữ là một trong những sáng tạo trong chiều hướng đó, ngoài những lợi ích thông thường ai ai cũng biết, chữ Quốc ngữ còn là một công cụ văn hóa đặc thù đã đóng góp như một chiến lược, một giải pháp giúp dân tộc Việt Nam thoát khỏi nỗi đau kéo dài suốt giòng lịch sử đến tận những thập giữa của thế kỷ 20; đó là sự lệ thuộc toàn diện vào ngoại bang quá chặt chẽ, quá dài lâu. Sự lệ thuộc dường như không có lối thoát nếu không có chữ Quốc ngữ (chúng ta đã có chữ Nôm nhưng muốn giỏi chữ Nôm, điều kiện tiên quyết là phải giỏi chữ Hán, do đó chữ Nôm giống như một động thái thoát ly chứ chưa phác họa được lối thoát cụ thể và chắc chắn). Đồng thời, chữ Quốc ngữ với sự đơn giản và cùng hệ thống La tinh đã giúp các thế hệ thụ hưởng tiếp cận nền văn hoá, kỹ thuật phương Tây cách dễ dàng, nhanh chóng và dùng chính văn hoá và kỹ thuật đó đầy hiệu quả để giành lại độc lập cho tổ quốc.
Giống như chữ Nôm, chữ Quốc ngữ mở ra một kỷ nguyên mới cho nền văn hóa nước nhà, vạch hướng tiếp cận đến nhiều nguồn văn hóa lớn của thế giới. Cho đến nay, có những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ được trang trọng đặt trong Thư viện các trường Đại học lớn, các Thư viện quốc tế lẫy lừng.
Chữ Quốc ngữ được dùng để chỉ chữ viết của một quốc gia; theo cách ấy, chữ Nôm cũng phải được xem là chữ Quốc ngữ. Chữ Nôm là dạng Quốc ngữ sáng tạo trong vay mượn, nhưng khổ nỗi là, chưa thoát khỏi sự ràng buộc về phương diện ý nghiã lại bị trói buộc thêm vào từ tạo thanh âm; do vậy, bản thân chữ Nôm là một rắc rối lớn về nhiều phương diện. Cho đến cuối thế kỷ 19, nghĩa là sau gần 10 thế kỷ góp mặt, chữ Nôm vẫn là chữ của một thiểu số trí thức mà thôi.
Chữ Quốc ngữ cũng là một sáng tạo trong vay mượn nhưng sau đó nó chứng tỏ ngay tính độc lập, tiết kiệm, đơn giản, khả năng phô diễn ý tưởng và thanh điệu đến mức gần như hoàn hảo. Chỉ cần 3 tháng, một người nông dân bình thường đã có thể đọc thông viết thạo. Chữ Quốc ngữ tạo nên một kỳ tích lịch sử qua phong trào toàn dân chống giặc dốt, chống mù chữ. Vì thế, chữ Quốc ngữ đã góp phần rất lớn trong việc tạo nên sức mạnh dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, danh từ Quốc ngữ được dùng để chỉ riêng loại chữ viết dựa trên các mẫu tự La Tinh.
Chúng ta không được phép quên những con người đã ghi dấu ấn sâu đậm vào tiến trình sáng tạo chữ Quốc ngữ, những con người đã thúc đẩy, phát triển, hoàn thiện để chữ Quốc ngữ trở thành nền tảng đặc biệt cho sự phát triển nước nhà giai đoạn cận đại. Chữ Quốc ngữ dẫu còn non trẻ nhưng đã kịp thời đóng góp các công trình sáng tạo vào kho tàng văn hóa. Từ khi chữ Quốc ngữ được chính thức sử dụng, các hình thức văn hóa mới như: báo chí, tiểu thuyết, biên khảo…được phát triển nhanh, mạnh và liên tục.
Chữ Quốc ngữ – tặng phẩm văn hoá của những người anh em rất xa xôi đã tạo động lực để góp phần đưa dân tộc Việt Nam đến một cơ hội tuyệt vời – sự độc lập.
Đã có nhiều học giả dầy công nghiên cứu chữ Quốc ngữ dưới nhiều góc cạnh. Cho đến nay, nhiều uẩn khúc đã được giãi bày kể cả uẩn khúc của những dòng họ, những cá nhân đã gắn bó sâu đậm với chữ Quốc ngữ như một định mệnh đầy hệ luỵ. Kẻ hậu sinh, trong sự hiểu biết hạn hẹp, chỉ dám ghi nhận chút buồn vui từ những thăng trầm gần đây của chữ nghĩa – những chữ nghĩa đơn giản mà thôi.
Chữ nghiã cũng có số phận như muôn loài, được thai nghén rồi sinh ra, sống có nơi cư trú, chết có nghiã trang, thước đo số phận là thời gian mà chữ nghiã còn tồn tại.
Chữ phải có nghĩa, có khi một chữ lại mang nhiều nghĩa, cũng có khi một nghĩa lại hàm chứa trong nhiều chữ. Hoặc chữ này ghép với chữ nọ để trở thành một khái niệm khác. Đôi khi lại trớ trêu vì chữ một đằng nghĩa một nẻo theo kiểu “ nói dzậy mà không phải dzậy”.
Chữ cũng sống nay chết mai, nhiều khi sinh ở chốn này mà chết ở chốn nọ. Chữ nghĩa tung hô hôm nay lắm khi lại được dùng để mạt sát ngày mai. Không ít người đã có người sống dở chết dở vì chữ nghĩa!
Những người gốc Bắc sinh sống tại miền Nam đã có cơ hội sống giữa hai luồng chữ nghiã; sử dụng chữ và nghiã phương Bắc trong sinh hoạt gia đình, sinh hoạt giáo xứ; chữ và nghiã của địa phương trong sinh hoạt xã hội. Trước năm 1975, những khu công giáo như: Bình An, Ông Tạ, Xóm Mới…là hình ảnh thu nhỏ của làng quê miền Bắc, ngôn ngữ trong giáo xứ là ngôn ngữ thuần Bắc, mọi người cảm thấy được che chở như đang sống trong lũy tre làng. Những người từ Cái sắn, Bảo lộc, Hố nai…về thăm bà con ở Saigon đều cảm thấy ấm cúng, thân tình như đang sống ở cố hương. Thanh thiếu niên do học hành, làm việc ngoài khu vực, lúc khởi đầu cảm thấy xa lạ trong môi trường mới nhưng dần dần đã thích nghi và đem về giáo xứ mình những từ ngữ mới lạ. Sự giao tiếp ngày càng rộng mở, người gốc Bắc đã bớt khép kín và hưởng ứng sự thẳng thắn trong tính cách và ngôn ngữ địa phương. Từ đó, ngôn ngữ được sàng lọc và thay thế một cách tự nhiên. Những người lớn tuổi hoảng hốt khi thấy con cái nói chuyện với nhau, với bạn bè bằng ngôn ngữ kỳ khôi, khác lạ, nhìn qua nhìn lại thấy trong xứ nhà nào cũng thế, họ lo sợ con cái bị mất gốc, nhưng để ý kỹ hơn thì thấy rằng, ngôn ngữ có thay đổi nhưng cách sống, thái độ sống không thay đổi. Họ yên tâm, và rồi ngôn ngữ của họ cũng thay đổi lúc nào họ không biết. Việc này chỉ diễn ra ở các đô thị, nơi mật độ giao thoa văn hóa dầy đặc và chính các đô thị đã nghiễm nhiên trở thành môi trường cho sự chọn lọc ngôn ngữ. Một số từ không thích hợp với cuộc sống đô thị dịch vụ, công nghiệp nên dần dần bị mai một; cả giọng nói, cách nói đặc trưng vùng miền cũng nhẹ nhàng dần nơi thế hệ nối tiếp. Cả hai phía đều hưởng lợi từ sự chọn lọc này, nó giúp loại bỏ đi cách tự nhiên những từ ngữ địa phương thô kệch và nhận được những từ ngữ phù hợp đồng thời làm gia tăng kho từ vựng của mình.
Nếu chữ nghĩa chỉ có thế thì chắc cũng có ít điều cần bàn luận, nhưng ngôn ngữ trong một chính sách sử dụng cụ thể thì lại có đôi điều ngẫm nghĩ. Với sự chủ quan nào đó, đôi khi, chữ nghiã cũng lắm phen lên bờ xuống ruộng.
Có những từ (Hán Việt) trước kia sử dụng bình thường, nay vì để “bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt” nên đã bị những từ khác (thuần Việt ?) bắt nạt hoặc thay thế, chẳng hạn như:
– “Sổ gia đình”: ngoài ý nghiã trong lãnh vực quản lý hành chánh ra, nó gói ghém trong đó tình cảm của những người cùng chung một mái nhà; nay gọi là sổ hộ khẩu, thế thì, nó chỉ còn là bản liệt kê số lượng miệng ăn một cách lạnh lùng….. nó không cần biết đến những ấm cúng đoàn viên, những chia xẻ ngọt bùi, những thương yêu trìu mến, nghĩa là, tiêu diệt tận gốc tế bào cơ bản chứa đựng tình yêu thương – “gia đình”. (vấn đề này sẽ được xem xét cặn kẽ vào một dịp khác).
– Hồng thập tự : Chữ thập đỏ,
– Máy bay trực thăng : Máy bay lên thẳng……
Cứ vậy mà thay thế thì sẽ có nhiều điều rất tếu như:
– Sơn tinh : Ma núi,
– Thủy tinh : Ma nước,
– Nguyễn Trường Sơn : Nguyễn Núi Dài,
– Đỗ Nguyệt Cầm : Đỗ Đàn Trăng,…
Và cả đến văn học, văn chương cũng trở thành trần trụi nếu giả sử như thay vì gọi:
– “tác phẩm Đoạn trường tân thanh của cụ Nguyễn Du” thì sẽ gọi là : “tác phẩm Tiếng kêu đứt ruột mới của cụ Nguyễn Du”.
Hoặc như :
– “tác phẩm Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan” thì sẽ gọi là : “tác phẩm Nhớ thành cũ rồng bay của Bà Huyện Thanh Quan”.
Nếu tò mò cho rách việc thì không biết sẽ cần bao nhiêu giấy mực để thống kê những chuyện tiếu lâm …. kiểu này.
Thử tò mò thêm một từ đơn giản đang “hot” hiện nay, ví dụ : “chạy”. Ngoài những diễn giải bình thường, quen thuộc; chạy còn được định nghiã là lo lót, vận động những nơi quyền thế để được một ân huệ, để được việc.
Ví dụ : “chạy án” là làm mất tang chứng hoặc nhất định chối không nhận tội để khỏi bị kết án (1).
Từ đây, có thể dẫn đến những thứ “chạy” khác như chạy chức, chạy quyền, chạy trường, chạy lớp, chạy điểm, chạy bằng, chạy hộ khẩu, chạy sổ hưu…, có khi lúc sống chưa kịp chạy, chết rồi con cháu phải chạy thay như chạy nghiã trang, chạy chôn cất… Liệu rằng có bao nhiêu thứ và kiểu chạy nhỉ? Ai dám bảo tiếng Việt kém phong phú…
Có một giai đoạn, chúng ta cứ ngờ ngợ rồi áy náy không rõ ý tứ là thế nào khi nhìn những bảng hiệu như:
– Cửa hàng chất đốt thanh niên,
– Cửa hàng phụ nữ tươi sống,
– Cửa hàng thu mua nông sản…..
Và hiện nay, trên các nẻo đường, nhan nhản nào là:
– Cầy tơ quán,
– Tiểu hổ quán,
– Đồng xanh quán,
– Sạc lô quán…..
Tuy nhiên, vào khoảng năm 1998 tôi có dịp ăn thịt cầy ở quán ven đường của một bác người dân tộc Mường (Lương Sơn – Hoà Bình), bác đặt cho quán nhậu của mình cái tên đầy sức sống và rất lãng mạn là: “ Cầy dậy thì “ . Thằng tôi không dám một lời, chỉ biết ngả mũ chào. Ngôn ngữ được tung hứng hý lộng, nói theo kiểu thời thượng là “ trên cả tuyệt vời “ , (không biết đến nay quán có còn không.).
Trong các thông báo, báo cáo nào đó, thi thoảng chúng ta thấy hình như dư chữ hoặc mâu thuẫn trong những cụm từ: “ tất cả mọi người đã hiểu rõ…,…..cấm không được móc ngoặc……”, đôi khi sự kiện cần được mô tả cho chính xác thì câu chữ lại làm tăng vẻ mơ hồ như: “ kém khả năng chi trả…., đã có lúc không phải là không có…., có tiến bộ một bước, bước đầu có tiến bộ…”, và đỉnh cao của trí tuệ là cụm từ “ nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ” ……bó tay!
Một số bạn trẻ học tập trong môi trường quốc tế, đôi khi đã khiến tiếng Việt vốn rất phong phú bỗng nghèo nàn đi khi chêm ngoại ngữ vào tiếng Việt. “ …công việc good không ? ….sẽ Weekend ở đâu?”…..Dù biết rằng việc giao lưu mở rộng văn hóa là yếu tố tích cực, năng động cho việc hội nhập; nhưng nên nhớ là tiếng Việt hoàn toàn đủ khả năng mô tả những vấn đề tế nhị nhất, trừu tượng nhất. Các bạn trẻ hãy yên tâm với tiếng Việt của chúng ta.
Nhà văn Võ Hồng đã từng kêu lên rằng: “ Là nhà văn, chúng tôi yêu mến tiếng Việt hơn ai hết, phụng sự tiếng Việt hơn ai hết. Nhưng khi dậy tiếng Việt cho học sinh thì thật là nản. Đến nỗi có lần tôi nửa đùa nửa thật mà nói với một lớp nữ sinh:”Đối với tiếng Việt, các cô là những bà mẹ chồng. Các cô hành hạ nó, giày xéo nó, vùi dập phũ phàng nó. Câu văn viết sao cũng được, bất chấp văn phạm, bất chấp chính tả. Trong khi với tiếng Anh tiếng Pháp, các cô chiu chắt nâng niu. Sai một giới từ nhỏ, thiếu một chữ s chữ e các cô xuýt xoa đấm đầu bứt tai như vừa phạm tội trọng”. Nhìn rộng ra, những sai phạm này không phải chỉ dành riêng cho học sinh.
Cụ Thượng Chi cả đời sống với văn chương chữ nghiã, đã để lại cho hậu thế một nhận xét xác đáng “ tiếng Việt còn, nước Việt còn”. Sử dụng chuẩn xác tiếng Việt là góp phần bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Cụ Nguyễn Du khi nghiệm ra lẽ vô thường của chữ nghiã hẳn đã lạnh toát người và tự hỏi rằng :
“ Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Dẫu có lo lắng nhưng cụ quả là lạc quan khi nghĩ đến độ bền trăm năm của chữ nghiã; bây giờ, dưới tuyền đài hẳn cụ đã yên lòng vì chữ của cụ vẫn được hiểu đúng nghĩa của nó và ý của cụ.
Theo thời gian bia đá cũng mòn. Chữ nghiã có mòn không? Có lẽ có, các chuyên gia ngôn ngữ – văn hóa – xã hội sẽ có những tìm tòi, phân tích; chúng ta chờ được chia xẻ, thưởng thức những hiểu biết đầy thú vị trong khía cạnh này.
Nguyễn hữu Nghĩa
————————-
(1) Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, NXBVHTT, 2006.