MỘNG TUYỀN VẤN ÐÁP SAO LỤC 216

MỘNG TUYỀN VẤN ÐÁP SAO LỤC 216

THINH QUANG

VẤN: Cụ Nguyễn Ðộ Brookhurst Orange C ounty: Tôi có ha điều muốn được nhắc lại như sau:
1. Người xưa chia thời gian ra từng giai đoạn để đặt ra danh xưng.
Như thế nào?
2. Cũng như các buổi ăn cũng đều có danh xưng của nó…và

3. Hình như người phương Ðông có đồng hồ từ hàng ngàn năm ï
Có đúng như vậy không? Bà cụ nhắc hộ cho.
ÐÁP:
1. 1.Người xưa căn cứ vào con bóng và sắc trời mà phân định như : Trời sắp sáng thì gọi là MUỘI ÐÁN hay MUỘI SẢNG. Khi nhìn thấy trời đã sáng hẳn thì gọi là BÌNH ÐÁN hay BÌNH SÓC. Nên nhớ là lúc mặt trời mọc gọi là ÐÁN cũng còn gọi là TẢO TRIÊU hay THẦN. Khi mặt trời lên đêná đỉnh đầu gọi là NHẬT TRUNG hay NHẬT CỰC, nhưng cũng có người gọi là CHÁNH NGỌ hoặc TRUNG NGỌ. Nên nhớ lúc sắp đến Nhật Trung thì gọi là NGƯNG TRUNG. Mặt trời ngã về hướng Tây gọi là NHẬT TRẮC. Mặt trời sắp lặn thì gọi là NHẬT LUÂN hay NHẬT NHẬP.
Mộ là sau khi mặt trời lặn. Gai đoạn đầu thì gọi là HOÀNG HÔN hay NGÂN ÐỊNH…Ban đêm gọi là TIÊU hoặc TỊNH. Còn nửa đêm gọi TÍ DẠ. Tí là giờ Tí, Dạ là Ðêm. Có nghĩa là nửa đêm.
2.. Tên gọi của những bữa ăn được chia ra và gọi như sau:
TRIÊU THỰC là bữa ăn sáng, cũng còn gọi là ỦNG.
Trước Ngưng Trung vào khoảng 9 giờ sáng gọi là THỰC THỜI cũng còn gọi là TẢO THỰC. Bữa ăn tối gọi là TÔN.
2. Ngày xưa muốn biết thời gian để phân địnnh sự sinh hoạt hàng ngáy như sau:
Tiên khỏi thủy dùng NHẬT QUỸ để đo lường thời gian. Họ đặt một cái mâm tròn nghiêng về hướng tây, chính giữa thì dựng NHẤT THỐN CHÂN, có nghĩa “Kim Một Thốn, còn gọi là BIỂU. Vòng quanh cái mâm đánh dấu khắc ra 12 giờ 96 khắc…
Nhìn vào nó tợ như mặt đồng hồ ngày nay. Người ta căn cứ vào cái bóng của cây kim do mặt trời rọi vào mà xác định được giờ giấc. Dụng cụ Nhật Quỳ này hiện trưng bày tại đài Thiên Văn Bắc Kinh.
Tuy nhiên đến đời Chu thì không còn sử dụng Nhật Quỳ nữa mà lại là sử dụng LẬU HỒ KẾ THỜI KHÍ, có nghĩa cái đo giờ bằng bình nước rò. Các dụng cụ chế ra đồng hồ xưa nhất từ đời nhà Hán, bên trên là một bình nước rò, dưới có một thùng hứng nước, trong thùng có một con thuyền nhỏ cắm mũi tên tre, nhìn nơi thân của mũi tên có khắc những những nét sâu đậm xuống để chỉ giờ. Nước trong bình rò nhỏ xuống đều đặn,mực nước nơi thùng hứng thì cao dần lên, thân của mũi tên cũng theo đó mà lên cao dần cho đến một thời khắc nhất định. “Lậu Hồ” có nghĩa là thìng rò, lúc mới chế biến chỉ có một cái , về sau chế thành nhiều cái để đáp ứng theo nhu cầu. Về sau dụng cụ làm bằng “Ðồng”, vì vậy mới có tênÐỒNG HỒ TRÍCH LẬU , CÓ NGHĨA LÀ ÐỒNG HỒ NHỎ GIỌT. Cái đồng hồ cổ kính này hiện trưng bày ại Trung Hòa Cố Cung vẫn còn hoạt động.
Tóm lại, đời nhà Hán còn rất nhiều dụng cụ máy móc khác như các loại lịch hoạt động do Trương Hành đời Ðông Hán chế. Loại lịch này gọi là THỤY KIỀN MINH GIÁP v.v…
Còn tiếp
THINH QUANG

Bình luận về bài viết này