Trí thức là một lựa chọn

Trí thức là một lựa chọn

Nguyễn Hưng Quốc

Hình: photos.com

Trong bài trước, tôi đã giới thiệu quan điểm của Thomas Sowell trong cuốn Intellectuals and Society (2009), theo đó, trí thức là những kẻ mà công việc đều bắt đầu và kết thúc với ý tưởng. Xin nhắc lại: quan niệm ấy không hề cực đoan. Đó là cách hiểu thông thường trong thế giới nói tiếng Anh. Chính vì thế, từ điển Oxford mới định nghĩa trí thức là những kẻ thích và có khả năng theo đuổi những ý tưởng vị ý tưởng (ideas for their own sake) hơn là những vấn đề thực dụng.

Như vậy, vấn đề trí thức hay không trí thức không hẳn là vấn đề trình độ. Không phải trí thức thông thái hơn những người không được xem là trí thức. Một chuyên gia (expert) trong một lãnh vực nào đó có thể có kiến thức chuyên ngành cao hơn hẳn những người vốn được công nhận là trí thức, nhưng chuyên gia, trong phần lớn các trường hợp, không phải là trí thức bởi kết quả cuối cùng của công việc họ làm không phải là ý tưởng mà là sản phẩm hay dịch vụ. Trí thức cũng không hẳn khôn ngoan hơn người khác. Chính vì thế mới có những “tri thức dại dột” (unwise intellect). Chung quanh những tên độc tài khát máu như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hitler, lúc nào cũng đầy những người được xem là thuộc “giới trí thức” (intelligentsia) sùng bái và ca tụng, bất chấp việc chúng đã giết chết cả hàng triệu người vô tội và đày đoạ dân tộc của chúng vào cảnh hoặc chiến tranh hoặc bần cùng.

Nhưng trí thức cũng không hẳn thuộc phạm trù nghề nghiệp (occupational category) như Thomas Sowell đã viết (tr. 2 & 282). Thật ra, Sowell phân biệt hai từ trí thức: với tư cách một danh từ, nó chỉ một loại người thuộc một nghề nghiệp nhất định nào đó; với tư cách một tính từ, nó chỉ một loạt những tiêu chuẩn và thành tựu được khái quát hoá từ cách hành xử của phần lớn những người trong nghề nghiệp đó (tr. 282).

Trên thực tế, phần lớn những người trí thức thuộc giới nghiên cứu, đặc biệt giới nghiên cứu các ngành khoa học lý thuyết, khoa học xã hội và nhân văn, tức những người hoạt động không dẫn đến kết quả nào khác ngoài các ý tưởng. Tuy nhiên, phạm vi của cái gọi là nghiên cứu ấy lại rất rộng, không giới hạn trong một lãnh vực cụ thể nào cả. Chúng ta có thể thấy điều đó qua danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu trên thế giới do tạp chí Foreign PolicyProspect Magazine thực hiện vào năm 2005.

 
Hạng Tên Nghề nghiệp Quốc gia Số phiếu
1. Noam Chomsky Nhà ngôn ngữ học, tác giả, nhà hoạt động xã hội Mỹ 4827
2. Umberto Eco Tiểu thuyết gia và nhà Trung cổ học Ý 2464
3. Richard Dawkins Nhà sinh vật học và nhà bút chiến Anh 2188
4. Václav Havel Chính khách, kịch tác gia Czech Republic 1990
5. Christopher Hitchens Nhà bút chiến Anh/Mỹ 1844
6. Paul Krugman Kinh tế gia, ký mục gia Mỹ 1746
7. Jürgen Habermas Triết gia Đức 1639
8. Amartya Sen Kinh tế gia Ấn Độ 1590
9. Jared Diamond Nhà inh vật học, sử gia Mỹ 1499
10. Salman Rushdie Tiểu thuyết gia, bình luận gia chính trị Anh/Ấn Độ 1468
11. Naomi Klein Tác giả, ký giả Canada 1378
12. Shirin Ebadi Luật sư, nhà hoạt động nhân quyền Iran 1309
13. Hernando de Soto Kinh tế gia Peru 1202
14. Bjørn Lomborg Nhà môi trường học Đan Mạch 1141
15. Abdolkarim Soroush Lý thuyết gia tôn giáo Iran 1114
16. Thomas Friedman Ký giả, tác giả Mỹ 1049
17. Pope Benedict XVI Nhà lãnh đạo tôn giáo Đức, Vatican 1046
18. Eric Hobsbawm Sử gia Britain 1037
19. Paul Wolfowitz Giáo sư, nhà hoạch định chính sách Mỹ 1028
20. Camille Paglia Tác giả, nhà phê bình xã hội Mỹ 1013
21. Francis Fukuyama Nhà chính trị học, tác giả Mỹ 883
22. Jean Baudrillard Nhà xã hội học Pháp 858
23. Slavoj Zizek Triết gia, nhà xã hội học Slovenia 840
24. Daniel Dennett Triết gia Mỹ 832
25. Freeman Dyson Nhà vật lý Mỹ 823
26. Steven Pinker Nhà tâm lý học Mỹ/Canada 812
27. Jeffrey Sachs Nhà kinh tế Mỹ 810
28. Samuel Huntington Nhà chính trị học Mỹ 805
29. Mario Vargas Llosa Tiểu thuyết gia, chính khách Peru 771
30. Ali al-Sistani Tu sĩ Iran, Iraq 768
31. E.O. Wilson Nhà sinh vật học Mỹ 742
32. Richard Posner Thẩm phán, học giả Mỹ 740
33. Peter Singer Triết gia Úc 703
34. Bernard Lewis Sử gia Anh/Mỹ 660
35. Fareed Zakaria Tác giả, ký giả Mỹ 634
36. Gary Becker Nhà kinh tế học Mỹ 630
37. Michael Ignatieff Nhà văn, lý thuyết gia về nhân quyền Canada 610
38. Chinua Achebe Tiểu thuyết gia Nigeria 585
39. Anthony Giddens Nhà xã hội học Anh 582
40. Lawrence Lessig Học giả về luật pháp Mỹ 565
41. Richard Rorty Triết gia Mỹ 562
42. Jagdish Bhagwati Kinh tế gia Mỹ/Ấn Độ 561
43. Fernando Henrique Cardoso Nhà xã hội học, cựu Tổng thống Brazil 556
44. J.M. Coetzee Tiểu thuyết gia Nam Phi 548
44. Niall Ferguson Sử gia Anh 548
46. Ayaan Hirsi Ali Chính trị gia Somalia, Netherlands 546
47. Steven Weinberg Vật lý gia Mỹ 507
48. Julia Kristeva Triết gia Pháp 487
49. Germaine Greer Nhà văn, giáo sư Úc/Anh 471
50. Antonio Negri Triết gia Ý 452
51. Rem Koolhaas Kiến trúc sư Hà Lan 429
52. Timothy Garton Ash Sử gia Anh 428
53. Martha Nussbaum Triết gia Mỹ 422
54. Orhan Pamuk Tiểu thuyết gia Turkey 393
55. Clifford Geertz Nhà nhân chủng học Mỹ 388
56. Yusuf al-Qaradawi Tu sĩ Ai Cập/ Qatar 382
57. Henry Louis Gates, Jr. Học giả, nhà phê bình xã hội Mỹ 379
58. Tariq Ramadan Học giả Hồi giáo Thuỵ Sĩ 372
59. Amos Oz Tiểu thuyết gia Israel 358
60. Lawrence Summers Kinh tế gia Mỹ 351
61. Hans Küng Nhà thần học Thuỵ Sĩ 344
62. Robert Kagan Nhà bình luận chính trị Mỹ 339
63. Paul Kennedy Sử gia Anh/Mỹ 334
64. Daniel Kahneman Nhà tâm lý học Israel/Mỹ 312
65. Sari Nusseibeh Nhà ngoại giao, triết gia Palestine 297
66. Wole Soyinka Kịch tác gia Nigeria 296
67. Kemal Dervis Kinh tế gia Turkey 295
68. Michael Walzer Lý thuyết gia chính trị Mỹ 279
69. Gao Xingjian Tiểu thuyết gia, kịch tác gia Trung Quốc 277
70. Howard Gardner Tâm lý gia Mỹ 273
71. James Lovelock Khoa học gia Anh 268
72. Robert Hughes Nhà phê bình nghệ thuật Úc 259
73. Ali Mazrui Nhà chính trị học Kenya 251
74. Craig Venter Nhà sinh vật học, doanh nhân Mỹ 244
75. Martin Rees Nhà vật lý thiên văn Britain 242
76. James Q. Wilson Nhà tội phạm học Mỹ 229
77. Robert Putnam Nhà chính trị học Mỹ 221
78. Peter Sloterdijk Triết gia Đức 217
79. Sergei Karaganov Nhà phân tích chính sách ngoại giao Nga 194
80. Sunita Narain Nhà môi trường học Ấn Độ 186
81. Alain Finkielkraut Triết gia Pháp 185
82. Fan Gang Nhà kinh tế học học Trung Quốc 180
83. Florence Wambugu Nhà thực vật bệnh lý học Kenya 159
84. Gilles Kepel Học giả về Hồi giáo Pháp 156
85. Enrique Krauze Sử gia Mexico 144
86. Ha Jin Nhà văn Trung Quốc 129
87. Neil Gershenfeld Vật lý gia Mỹ 120
88. Paul Ekman Nhà tâm lý học Mỹ 118
89. Jaron Lanier Nhà tiên phong về hiện thực ảo Mỹ 117
90. Gordon Conway Nhà nghiên cứu nông nghiệp Anh 90
91. Pavol Demes Nhà phân tích chính trị Slovakia 88
92. Elaine Scarry Lý thuyết gia văn học Mỹ 87
93. Robert Cooper Nhà văn, nhà ngoại giao Anh 86
94. Harold Varmus Nhà nghiên cứu y học Mỹ 85
95. Pramoedya Ananta Toer Nhà văn Indonesia 84
96. Zheng Bijian Nhà nghiên cứu chính trị Trung Quốc 76
97. Kenichi Ohmae Lý thuyết gia về quản trị Nhật 68
98. Wang Jisi Nhà phân tích chính sách ngoại giao Trung Quốc 59
98. Kishore Mahbubani Tác giả, nhà ngoại giao Singapore 59
100. Shintaro Ishihara Tác giả, chính trị gia Nhật 57

Nếu trí thức, theo cách giải thích của Thomas Sowell, là những người hoạt động trong lãnh vực bắt đầu và kết thúc với ý tưởng, có khá nhiều người trong danh sách trên vốn tự bản chất không phải là trí thức: họ là chính khách (kết quả cuối cùng của công việc họ làm là chính sách và quyền lực), tu sĩ (kết quả cuối cùng là việc giữ đạo và truyền đạo), thẩm phán (kết quả cuối cùng là án lệnh), nhà ngoại giao (kết quả cuối cùng là quan hệ đối ngoại), nhà nghiên cứu y học (kết quả cuối cùng là cách thức phòng và trị bệnh), nhà kinh doanh (kết quả cuối cùng là lợi nhuận), v.v… Tuy nhiên, tất cả đều trở thành nhà trí thức, hơn nữa, trí thức nổi tiếng nhất thế giới.

Tại sao?

Lý do chính là họ…vượt biên.

Có hai kiểu vượt biên chính.

Thứ nhất là vượt ra khỏi biên giới lãnh vực chuyên môn của họ. Ai cũng biết Noam Chomsky là một nhà ngôn ngữ học xuất sắc, nhưng dưới mắt quần chúng, ông trở thành một nhà trí thức lỗi lạc không phải vì các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học mà vì các bài bình luận về chính trị và xã hội, vốn nằm ngoài chuyên ngành của ông. Andrei Sakharov vốn là nhà vật lý nguyên tử đã trở một trí thức công chúng ở một lãnh vực hoàn toàn không dính líu gì đến vật lý: dân chủ và nhân quyền, ở đó, ông được giải thưởng Nobel Hoà bình năm 1975 và được biết đến ở khắp nơi trên thế giới. Trước đó, Bertrand Russell vốn cũng là một triết gia và một nhà toán học đã trở thành một trí thức công chúng nổi tiếng vì các  bình luận chính trị, đặc biệt về chiến tranh Việt Nam. Trong phạm vi Việt Nam, chúng ta cũng dễ dàng thấy nhiều hiện tượng tương tự. Hoàng Tuỵ trở thành một trí thức công chúng không phải với các công trình nghiên cứu về toán học mà với các nhận định của ông về giáo dục. Quá trình chuyển hoá từ một nhà văn đến một nhà trí thức của Nguyên Ngọc cũng là quá trình đi từ phạm trù thuần tuý văn chương đến phạm trù văn hoá và xã hội. Ở Úc, nếu không tham gia vào các cuộc thảo luận về văn hoá, giáo dục, và thỉnh thoảng, chính trị (nhất là những vấn đề liên quan đến Biển Đông), cả Nguyễn Văn Tuấn lẫn Phạm Quang Tuấn đều chỉ là những giáo sư và những chuyên gia thầm lặng trong lãnh vực chuyên ngành của họ: một người về y học và một người về hoá học. Các công trình nghiên cứu của họ được phổ biến trên các tập san chuyên môn, ở đó, họ là chuyên gia hơn là trí thức, càng không phải là trí thức công chúng.

Dĩ nhiên, trong quá trình từ một chuyên gia đến một trí thức, người ta có khá nhiều thuận lợi: một là kiến thức cơ bản của họ đã khá rộng; hai là họ đã quen thuộc với các thao tác nghiên cúu từ cách tìm kiếm đến cách lý giải tài liệu; ba là cách diễn đạt, ít nhất cũng mạch lạc đủ để người đọc có thể theo dõi; và bốn, quan trọng nhất, họ được rèn luyện kỹ năng phân tích và lý luận để có thể suy nghĩ một cách độc lập và có tính phê phán.

Cần lưu ý là ở một người đóng hai vai trò, chuyên gia và trí thức, tài năng của một chuyên gia không nhất thiết tương ứng với tài năng của một trí thức. Trong cuốn Public Intellectuals, Richard A. Posner ghi nhận là có nhiều trí thức có uy tín trong công chúng nhiều hơn hẳn trong cộng đồng nghề nghiệp của họ. Trong số 100 nhà trí thức nổi tiếng nhất trong công chúng, chỉ có 18 người là thực sự nổi tiếng trong chuyên ngành. Điều đó cho thấy từ một chuyên gia đến một trí thức, nhất là trí thức công chúng, người ta đi vào hai thế giới khác nhau với những tiêu chuẩn khác nhau.

Thứ hai, vượt ra khỏi biên giới của môi trường hoạt động cố hữu. Môi trường hoạt động cố hữu của các nhà khoa học là gì? Là các phòng thí nghiệm và các tập san chuyên môn. Người đọc, người theo dõi và đánh giá họ là các đồng nghiệp cùng ngành. Ngay cả khi họ nổi tiếng thì họ cũng chỉ nổi tiếng trong ngành. Một số người, thật ít ỏi, trong họ, đến với quần chúng được chủ yếu là nhờ tầng lớp trung gian: các học giả, ký giả và thầy cô giáo. Trước đây, chính qua các tầng lớp trung gian ấy mà Charles Darwin, Karl Marx và Sigmund Freud đã trở thành trí thức công chúng nổi tiếng cả thế giới. Sau này, với sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật truyền thông đại chúng, nhiều nhà trí thức lớn không muốn chờ đợi sự chuyển tải của tầng lớp trung gian ấy nữa. Họ trực tiếp đến với quần chúng. Thay vì chỉ đối thoại với đồng nghiệp trong các trung tâm nghiên cứu hay các đại học qua các tập san chuyên ngành, họ chọn lựa đối thoại trực tiếp với quần chúng bằng cách xuất hiện trên ti vi, trả lời phỏng vấn trên radio, viết các bài chính luận hoặc xã luận trên báo chí, và gần đây nhất, trên các blog. Đối tượng thay đổi, hình thức, ngôn ngữ và nội dung của các cuộc đối thoại cũng thay đổi theo. Từ văn phong học thuật, họ chuyển sang văn phong chính luận; từ ngôn ngữ hàn lâm, họ chuyển sang ngôn ngữ đại chúng; từ những đề tài chuyên môn họ chuyển sang những mối quan tâm trong đời sống hàng ngày của mọi người, hoặc ít nhất, của đa số dân chúng.

Trong cả hai trường hợp “vượt biên” nêu trên, quá trình từ một chuyên gia đến một trí thức hoặc từ một trí thức đến một trí thức công chúng hoàn toàn là một sự lựa chọn. Đó là một lựa chọn tự nguyện. Người ta không sinh ra là trí thức, đã đành. Ngay cả khi được học hành chu đáo, người ta cũng không nhất thiết trở thành trí thức để chỉ quanh quẩn mãi với các ý niệm và ý tưởng. Người ta có thể trở thành những nhà thực hành hay thực dụng xuất sắc. Lựa chọn trở thành trí thức là lựa chọn sống chết với ý tưởng. Chỉ với ý tưởng.

Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh.

Các khía cạnh khác, xin từ từ bàn sau.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: